Việt Cộng đã
hoạch đinh một kế hoạch tiếp tục những nỗ lực tuyên truyền, vận động của họ để
giành sự đồng tình của thế giới đối với họ và để thu hút càng nhiều những sự hỗ
trợ cho cuộc đấu tranh từ các nước khác của cộng sản càng tốt để tạo ra một môi
trường thuận lợi cho cộng sản Bắc Việt tại Hội nghị Paris về chấm dứt chiến
tranh và tái lập hòa bình cho Việt Nam.
Cập
nhật: 22/12/2013
Những tài liệu mới được phát hiện cho thấy có sự liên kết
giữa các Cựu chiến binh phản chiến với Cộng Sản Việt Nam
Hai tài liệu tịch thu được từ những cán binh cộng sản Bắc
Việt trong thời gian diễn ra cuộc chiến tranh Việt Nam, vừa mới được phát hiện
gần đây đã hổ trợ mạnh mẽ cho quan điểm cho rằng có một sự liên kết chặt chẽ
tồn tại giữa các chế độ cộng sản Hà Nội và Hội Cựu chiến binh phản chiến (VVAW)
trong thời gian John Kerry từng làm phát ngôn viên hàng đầu của nhóm phản chiến
toàn quốc.
Thông tư: Phối hợp quốc tế, tuyên truyền chống chiến tranh
Các tài liệu đầu tiên là “Thông Tư 1971” được phân phối bởi
những người cộng sản tại Việt Nam. Nội dung “Thông Tư” là thảo luận về các
chiến lược để phối hợp nỗ lực tuyên truyền trong nước thông qua các hoạt động
văn công nhằm tạo ra sự đồng cảm của các đối tác trong phong trào chống chiến
tranh Việt Nam của người Mỹ. Cụ thể, các tài liệu ghi nhận rằng Việt Cộng và
các đoàn đại biểu của phía Bắc Việt đến Pará để tham dự cuộc hòa đàm đã được sử
dụng như một nối kết thông tin liên lạc nhằm chỉ đạo và điều hướng các hoạt
động của các nhà phản chiến đến gặp gỡ họ tại Paris.
Dưới đây là một số trích dẫn từ tài liệu:
Các phong trào chống chiến tranh tự phát tại Mỹ đã nhận được
sự hỗ trợ và hướng dẫn từ đoàn “Thân Hữu Bắc Việt” tại hòa đàm Paris.
- Thông tư về các Phong Trào Phản Chiến ở Mỹ. Tham chiếu đến
“VC” biểu thị Việt Cộng; “NVN” biểu thị chính phủ Bắc Việt.
Câu này là đặc biệt quan trọng trong sự thừa nhận của John
Kerry rằng ông ta đã gặp gỡ với các nhà lãnh đạo của cả hai phái đoàn cộng sản
vào hòa đàm Paris vào tháng Sáu năm 1970, trong đó có bà Bình, bộ trưởng ngoại
giao của Chính phủ cách mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (PRG), còn
được gọi là Việt Cộng. Hồ sơ của FBI từng ghi nhận rằng Kerry sau đó đã trở lại
Paris để gặp gỡ với phái đoàn cộng sản Bắc Việt vào tháng Tám năm 1971, và cũng
đã từng lên kế hoạch cho một chuyến đi thứ ba vào tháng Mười Một.
Trước khi phát hiện ra Thông tư này, thì không có bằng chứng
trực tiếp rằng Hà Nội đã thực sự chỉ đạo các hoạt động của Phong Trào Phản
Chiến ở Mỹ bằng cách truyền đạt các mục tiêu và mong muốn của Hà Nội đến các
lãnh đạo phong trào phản chiến thông qua các chuyến thăm thường xuyên của họ
đến Paris, mặc dù nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định điều đó là xác thực. Những
Phân tích sâu hơn về các tài liệu này đã chứng minh tính đúng đắn của quan điểm
cho rằng bà Nguyễn Thị Bình đã sử dụng các cuộc gặp gỡ của y thị với John Kerry
ở Paris để hướng dẫn cho Kerry về phương cách mà ông và Hội Cựu Chiến Binh Phản
Chiến của Mỹ có thể làm tốt nhất vai trò của người đại diện cho Hà Nội tại Hoa
Kỳ. Vào mùa Xuân và mùa Hè năm 1971, một chiến lược quan trọng của Hà Nội đã
được xúc tiến gọi là Kế hoạch hòa bình Bảy điểm của Nguyễn Thị Bình.
Kế hoạch này được xây dựng khéo léo để buộc Tổng thống Nixon
phải đưa ra một thời hạn để kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam và rút hết quân
đôi Mỹ ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Theo kế hoạch hòa bình 7 điểm của bà Bình,
trở ngại duy nhất để Hà Nội đưa ra thời hiệu phóng thích các tù nhân chiến
tranh của Mỹ ấy là Tổng Thống Nixon đã không sẵn sang đưa ra ngày giờ cụ thể
cho việc rút quân. Tất nhiên, việc chấp nhận một cách đầy đủ các điều khoản của
Kế hoạch hòa bình 7 điểm sẽ buộc chính phủ Hoa Kỳ phải thừa nhận bại trận và
đầu hàng, một sự đầu hàng nhục nhã bao gồm việc bồi thường chiến tranh cho phía
cộng sản Việt Nam như một là một sự thừa nhận trước công luận quốc tế rằng Hoa
Kỳ là kẻ xâm lược sai trái trong một cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Một phần của Thông tư có tiêu đề “CHUẨN BỊ CHO PHONG TRÀO
PHẢN CHIẾN MÙA THU 1971” đã làm rõ ràng tầm quan trọng của sự phát triển kế
hoạch hòa bình 7 điểm của bà Nguyễn Thị Bình mà cộng sản Việt Nam đặt để trên
phạm vi nước Mỹ đó là: Đề nghị hòa bình bảy điểm của Chính phủ cách mạng
Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam không chỉ giải quyết vấn đề liên quan đến
việc phóng thích các tù binh Mỹ mà còn thúc đẩy người dân của tất cả các tầng lớp
xã hội và thậm chí cả thân nhân của phi công Mỹ bị giam giữ tại Miền Bắc Việt
Nam tham gia phong trào chống chiến tranh.
- Thông tư về các phong trào phản chiến ở Mỹ cho thấy Chính
phủ cách mạng lâm Nam Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam “SVN”, tức là Việt Cộng còn
Chính Phủ Bắc Việt, “NVN” tức là đề cập đến miền Bắc Việt Nam.
Và một lần nữa, đã nhấn mạnh việc cộng sản Việt Nam xem sự
nối kết các hoạt động của phong trào phản chiến Mỹ, nền chính trị Hoa Kỳ và nền
chính trị tại Nam Việt Nam với nhau, như là mục tiêu tổng quát của Kế hoạch hòa
bình 7 điểm của Thị Bình có một tầm quan trọng như thế nào:
Bè lũ Nixon - Thiệu bè lũ sẽ vô cùng lúng túng vì đề nghị
hòa bình bảy điểm được ủng hộ bởi các phong trào đấu tranh trên mặt trận chính
trị của các chính trị gia thuộc Chính Phủ Cách Mạnh
Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam và các phong trào phản chiến ở Mỹ. Vì vậy,
tất cả các địa phương, các đơn vị, các phân khu phải phổ biến rộng rãi đề nghị
hòa bình bảy điểm này, phải đẩy mạnh phong đấu tranh chính trị của quần chúng
nhân dân cả ở các thành phố cũng như ở các vùng nông thôn, tận dụng lợi thế của
các rối loạn và chia rẽ trong của phía đối phương (Việt Nam Cộng Hòa) trong
cuộc bầu cử Quốc hội và bầu cử Tổng thống sắp tới. Các cơ quan đoàn thể phải
phối hợp thành công hơn với các phong trào phản chiến ở Mỹ để cô lập các phe
nhóm Nixon - Thiệu.
- Thông tư về các phong trào phản chiến ở Mỹ.
“RVN” nghĩa là Việt Nam Cộng Hòa, tức là chính quyền Miền Nam do Hoa Kỳ hậu
thuẩn.
Các gia đình có con em là tù binh chiến tranh: Mục tiêu của
Cộng Sản Việt Nam
Cuối năm 1970, một Việt Cộng chiêu hồi đã mô tả lại một kế
hoạch mà cộng sản sử dụng những thành phần thân cộng ở Mỹ để vận động các thành
viên gia đình của tù binh Mỹ bị giam giữ ở Miền Bắc Việt Nam cùng tham gia
trong các phong trào phản chiến. Bản tóm tắt sau đây của cuộc phỏng vấn các cán
binh cộng sản hồi chánh đã được cung cấp cho Ủy Ban Đối Ngoại Hạ Viện:
Việt Cộng đã hoạch đinh một kế hoạch tiếp tục những nỗ lực
tuyên truyền, vận động của họ để giành sự đồng tình của thế giới đối với họ và
để thu hút càng nhiều những sự hỗ trợ cho cuộc đấu tranh từ các nước khác của
cộng sản càng tốt để tạo ra một môi trường thuận lợi cho cộng sản Bắc Việt tại
Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình cho Việt Nam.
Việt Cộng sẽ tiếp tục tăng cường các hoạt động phản chiến ở
Mỹ, gây tình trạng bất ổn trong nước, bằng các phong trào phản đối sự can thiệp
của Mỹ vào cuộc chiến tranh Việt Nam để tăng nhanh tiến trình triệt thoái quân
đội Mỹ ra khỏi Việt Nam và tạo ra áp lực sớm chấm dứt chiến tranh.
Nỗ lực này sẽ được hướng trực tiếp đến các binh sỹ Hoa Kỳ Mỹ
tại Việt Nam để họ yêu sách với chính phủ Hoa Kỳ rằng họ phải được trở về nước
và được đoàn tụ với gia đình và vợ của của họ .
Việt Cộng sẽ nổ lực để tạo ra các dự thảo chống chiến tranh
và thái độ chống chiến tranh ở Mỹ bằng cách tổ chức các nhóm thân cộng tại Hoa
Kỳ để các nhóm đó liên lạc với các gia đình có con em đang chiến đấu ở Việt Nam
và xúi giục họ gọi con em bỏ ngủ về nước. Đồng thời, các băng nhóm thân cộng
tại Hoa Kỳ cũng sẽ được tổ chức để phân phối các dự thảo và truyền đơn chống
chiến tranh cho sinh viên và thanh niên Mỹ.
Vào ngày 01 tháng hai năm 1971, tại buổi điều tra của Winter
Soldier ở Detroit, các Cựu Chiến Binh Phản Chiến đã đưa ra lời tuyên bố của bà
Virginia Warner, mẹ của tù binh chiến tranh Jim Warner, đôn đốc Tổng thống
Nixon phải “kết thúc chiến tranh để các tù nhân chiến tranh có thể trở về nhà.”
Jim Warner đã cáo buộc chính John Kerry đã khai thác nỗi sợ hãi của mẹ mình để
có được lời tuyên bố đó.
Vào ngày 22 tháng bảy năm 1971, John Kerry đã tổ chức một
cuộc họp báo ở Washington DC, kêu gọi Tổng thống Nixon chấp nhận kế hoạch hòa
bình 7 điểm của Thị Bình. Tại cuộc họp báo đó, bao quanh Kerry là vô sô vợ con
các tù binh chiến tranh cùng cha mẹ và anh chị em của họ được mời tham dự để
quảng bá thông điệp của mình. Sự kiện này được tường trình trên tờ Thời Báo New
York vào ngày 23 Tháng Bảy năm 1971 và trên tờ Thế Giới Cộng Sản Hàng Ngày vào
hôm 24 tháng 7 năm 1971. Mỗi bài viết được đăng kè bức ảnh của Kerry được bao
quanh bởi các thành viên gia đình tù binh chiến tranh.
Việc John Kerry sử dụng các gia đình tù binh chiến tranh
trong hoạt động phản chiến đã trực tiếp tạo ưu thế cộng sản Bắc Việt trong
chương trình nghị sự tại Hòa Đàm Paris như mô tả của cán binh cộng sản hồi
chánh cũng như trong Thông tư mới được phát hiện, cho thấy thị Bình đã đề nghị
cùng một kế hoạch hành động cho các nhà hoạt động phản chiến mà y thị đã từng
gặp gỡ ở Paris.
[Lưu ý: Một số gia đình tù binh chiến tranh đã được liên lạc
bởi một nhóm “giao liên” do Cora Weiss, con gái của tài nhà hổ trợ tài chính
cho đảng cộng sản, Samuel Rubin, lãnh đạo với những đề xuất là sẽ giúp chuyển
thư tín và các thông tin về người chồng tù binh của họ nếu gia đình đồng ý công
khai lên án cuộc chiến tranh. Hầu hết các thành viên gia đình tù binh từ chối
hợp tác với hành vi tống tiền này, ngay cả khi họ được hứa hẹn sẽ đối xử tốt
hơn với chồng hoặc con của họ tại các nhà tù ở Hà Nội. Bốn người vợ tù binh tức
giận phản đối tại cuộc họp báo của John Kerry vào tháng bảy, một trong số đó
cáo buộc Kerry tội “thường xuyên sử dụng đau khổ và đau buồn của chúng tôi” để
xiễn dương tham vọng chính trị của mình.]
Chỉ Thị: Hỗ Trợ Các Cuộc Biểu Tình, Bạo Lọan Trong Nước Mỹ
Tài liệu thứ hai, lực lượng quân đội Mỹ tại miền Nam Việt
Nam vào ngày 12 tháng năm 1972, đã bắt giữ một điệp báo cộng sản với chỉ thị
được soạn thảo để thúc đẩy các cuộc thảo luận tại Việt Nam về việc thúc đẩy các
hoạt động phản chiến đang diễn ra tại Hoa Kỳ. Đoạn thứ năm của tài liệu này đã
tường giải rằng những người cộng sản Việt Nam đã được sử dụng cho mục đích
tuyên truyền về các hoạt động của Hội Cựu chiến binh Hoa Kỳ chống chiến tranh
Việt Nam. Cuộc biểu tình được mô tả là diễn ra từ ngày 19 đến ngày 22 tháng 4
năm 1971tại Washington DC trùng hợp trực tiếp với các ngày khởi đầu chiến dịch
hành quân Lam Sơn 719, là một cuộc biểu tình do John Kerry đầu têu, trong đó
John Kerry làm chứng nhân của cuộc chiến tranh trước Ủy ban Đối ngoại của
Thượng nghị sĩ Fulbright là một trung tâm truyền hình. Các mô tả về các hoạt
động phản chiến theo Chỉ thị thậm chí bao gồm cả việc “trả lại huy chương” tại
chính buổi lễ đó, chính John Kerry và các thành viên khác của nhóm Cựu Chiến Binh
Phản Chiến đã ném bỏ các huy chương và/hoặc ruy băng danh dự của họ xuống các
bậc tam cấp của Điện Capitol Hoa Kỳ, cùng với hành động đó là nhiều tiếng la
hét đe dọa bạo lực đối với chính phủ.
Các Kết Nối: Ủy Ban Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý (PCPJ)
Một luận cứ quan trọng trong các tài liệu cho thấy mức độ mà
những người cộng sản Việt Nam đã làm việc với và thông qua các Liên Minh Dân
Tộc Vì Hòa Bình và Công Lý. Thông tư, ngay lập tức tiết lộ các Phái Đoàn Cộng
tham dự cuộc đàm phán hòa bình Paris đã được sử dụng để hướng dẫn phong trào
phản chiến Mỹ, đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Ủy Ban Dân Tộc Vì Hòa Bình
Và Công Lý (PCPJ) như thế nào đối với những nỗ lực này:
Đối với các phong trào phản chiến ở Mỹ, thì hai thực thể
quan trọng hơn cả là: Ủy Ban Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý (PCPJ) và Ủy Ban
Quốc Gia Hành Động Vì Hòa Bình (NPAC). Hai phong trào này đã tập được nhiều sức
mạnh quần chúng và tổ chức nhiều cuộc biểu tình tuần hành. Trong đó, Ủy Ban Dân
Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý (PCPJ) là quan trọng nhất. Ủy Ban này vẫn duy trì
mối quan hệ với chúng tôi.
- Thông tư về các phong trào phản chiến ở Mỹ (Nhấn Mạnh Bổ
Sung).
Trong báo cáo thường niên 1971 của Cục Nội An đã mô tả Ủy
Ban Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý (PCPJ) là một tổ chức đặt dưới quyền kiểm
soát của cộng sản Mỹ: “Vấn đề đáng quan tâm ở đây là các đảng viên đảng Cộng
sản đã tạo ra những ảnh hưởng lớn, và những hướng dẫn có tác động mạnh mẽ đến
sự hình thành và phát triển các chính sách của Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình Và
Công Lý (PCPJ)”.
Những tường trình về kết quả giám sát của FBI vừa công bố
gần đây đã chứng tỏ một mối liên kết mạnh mẽ giữa John Kerry, Al Hubbard, các
Cựu Chiến Binh Phản Chiến, Ủy Ban Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý (PCPJ) và các
chuyến đi của họ đến Paris để gặp gỡ với thị Bình. Như những tranh luận được
trình bày trong cuốn Unfit For Command, về Hubbard, trưởng ban điều hành của
Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến và một đường lối cứng rắn cực đoan có quan hệ với
các thế lực đen Black Panthers và Ủy Ban Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý (PCPJ),
đã trực tiếp tuyển dụng John Kerry vào Ban Chấp hành Hội Cựu Chiến Binh Phản
Chiến, bỏ qua quá trình bầu cử của tổ chức. Tuyên bố của Al Hubbard rằng bản
thân từng là một phi công vận tải, từng bị thương tích trong chiến đấu, đã trở
nên bất khả tín khi Bộ Quốc phòng công bố các tài liệu chứng minh rằng, mặc dù
Hubbard đã ở trong không lực lượng Không quân, nhưng ông không phải là phi công
cũng chẳng phải là sĩ quan, và chưa bao giờ phục vụ tại chiến trường Việt Nam và
cũng đã chưa từng tham gia chiến đấu ở bất cứ nơi đâu. Chính ông John Kerry
chia sẻ câu chuyện tham chiến của mình với Al Hubbard trong cuộc biểu tình Phản
Đối Cuộc Hành Quân Lam Sơn 719 tại Washington, DC, và Kerry đã xuất hiện cùng
với Hubbard trên chương trình Gặp Gỡ Báo Chí trên kênh truyền hình NBC vào ngày
18 Tháng Tư năm 1971. Hubbard cũng đã ký Hiệp ước Hòa Bình Dân Tộc People's
Peace Treaty (Giữa Người Mỹ, Người Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam và người Việt
Nam Cộng Sản ở Miền Bắc), một tài liệu của Ủy Ban Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công
Lý (PCPJ) mà đã tái khẳng định vị trí của Bắc Việt Nam và Việt Cộng, nhân danh
Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến.
Một tường trình của FBI ấn ký ngày 11 tháng 11 năm 1971 báo
cáo rằng FBI đã nắm bắt được thông tin tại Hội nghị Hội Cựu Chiến Binh
Phản Chiến khu vực Norman Oklahoma, vào ngày 5-
Tháng 7, năm 1971, rằng John Kerry và Al Hubbard đã
hoạch định chuyến đi đến Paris trong tháng 7 để tham gia vào các cuộc đàm phán
hòa bình với các đoàn đại biểu cộng Sản Việt Nam. Trong khi tài liệu này đang
được phối kiểm từ nhiều nguồn khác nhau, thì một báo cáo khác của FBI khác đã
tường minh rằng Đảng Cộng sản Mỹ lo liệu mọi chi phí cho chuyến đi của Al
Hubbard đến Paris.
Cần lưu ý rằng “ĐẢNG CỘNG SẢN” ĐƯỢC ĐỀ CẬP ĐẾN TRÊN
RETEL là Đảng Cộng sản Hoa Kỳ, VÌ AL HUBBARD LÀ THÀNH VIÊN phối hợp của Liên
Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý (PCPJ), CŨNG NHƯ GIL GREEN LÀ THÀNH VIÊN
CỦA ỦY BAN QUỐC GIA CỦA CỘNG SẢN Hoa Kỳ và Jarvis TYNER LÀ GIÁM ĐỐC LIÊN ĐOÀN
THANH NIÊN CÔNG NHÂN GIẢI PHÓNG DÂN TỘC. HUBBARD, GREEN VÀ TYNER ĐÃ TỪNG CÙNG
THAM DỰ CÁC CUỘC HỌP CỦA LIÊN MINH DÂN TỘC VÌ HÒA BÌNH VÀ CÔNG LÝ (PCPJ).
-Trong một báo cáo về giám sát thực địa của Cục Điều Tra
Liên Bang FBI, nộp ngày 11 tháng 11 năm 1971, gồm một bản sao của báo cáo này
được gởi đến văn phòng FBI ở Boston bằng đường hàng không yêu cầu Văn Phòng lưu
tâm đặc biệt đến John Kerry .
Một báo cáo khác của Cục Điều Tra Liên Bang FBI trong lĩnh
vực giám sát thực địa ngày 24 Tháng 11 năm 19 đã tường trình chi tiết về phần trình
bày của Al Hubbard cho các ủy ban điều hành và chỉ đạo Hội Cựu Chiến Binh Phản
Chiến trong một cuộc họp tại thành phố Kansas, Missouri, trong suốt những ngày
cuối tuần từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 11 năm 1971. Tại cuộc họp này các Hội
Cựu Chiến Binh Phản Chiến đã xem xét, và sau đó đã từ chối kế hoạch ám sát một
số thượng nghị sĩ Hoa Kỳ ủng hộ cuộc chiến tranh Việt Nam. John Kerry được ghi
nhận là có hiện diện trong cuộc họp. Một lần nữa, Al Hubbard đã làm sáng tỏ
thêm sự phối hợp của cộng sản có liên quan đến chuyến đi gần đây của ông đến
Paris:
[BLACK OUT] Xin được thông báo rằng Hubbard đã cung cấp các
thông tin sau về chuyến đi Paris của mình như sau: Có hai thực thể nước
ngoài, một là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt) và Cộng Hòa Miền Nam Việt
Nam, đã mời đại diện của Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến cùng đại diện Đảng
Cộng sản Hoa Kỳ, và một nhóm cánh tả tại Paris, cùng tham dự cuộc họp của họ ở
Paris. Hubbard khai là ông được bầu chọn để đại diện cho Hội Cựu Chiến Binh
Phản Chiến. Một người đàn ông khác, không rõ danh tính đã được mời đại diện cho
đảng cộng sản Hoa Kỳ và một cá nhân không rõ danh tính khác đã được tuyển chọn
để đại diện cho các nhóm cánh tả ở Paris. Tại cuộc họp, Hubbard cũng đã trình
bày rằng chuyến đi của ông được tài trợ bởi Đảng Cộng Sản Mỹ.
- Báo cáo giám sát thực địa của Cục Điều Tra Liên Bang, nộp
24 Tháng 11 năm 1971.
Một lá thư do Al Hubbard viết vào ngày 20 tháng 4 năm 1971
đã xóa tan mọi nghi ngờ về sự phối hợp chặt chẽ giữa Hội Cựu chiến binh chống
chiến tranh Việt Nam và Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình và Công Lý. Địa chỉ nơi
gửi đi là từ các văn phòng Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến ở Washington, DC, bức
thư đưa ra lời kêu gọi cho các thành viên của Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến hãy
dành sự hỗ trợ cho Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình và Công Lý (PCPJ). Nội dung
bức thư cũng bàn thảo về một số phương cách mà hai tổ chức đó đã làm việc chặt
chẽ với nhau:
Đây là một lời kêu gọi giúp đỡ cho Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa
Bình và Công Lý (PCPJ). Trong những tháng qua, Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình và
Công Lý (PCPJ). đã hỗ trợ Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến bằng nhiều cách.
Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình và Công Lý (PCPJ) đã cung cấp miễn phí văn phòng
làm việc cho Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến, và Liên Minh cũng cho phép Hội được
sử dụng tất cả các thiết bị văn phòng cần thiết như máy máy quay rô nê ô, máy
làm stencil thư mục và máy đánh chữ. Họ cho chúng tôi mượn chiếc xe hơi, phương
tiện thông tin, và thiết bị địa chỉ công cộng. Nhân viên của họ đã tiếp nhận
thông tin báo chí cho chúng tôi và giúp chúng tôi tham gia cùng chúng tôi trong
tình đồng chí để giúp đỡ cho chúng tôi cùng tiến bộ của chúng tôi. Bây giờ là
lúc mà chúng ta có thể đáp trả lại bằng sự hỗ trợ này.
Vào ngày thứ bảy, 24 Tháng Tư, Liên minh cần sự giúp đỡ
quyên góp tiền và bán các nút bấm tại cuộc diễu hành tuyệt và cuộc biểu tình
lớn. Những người làm công việc quyên góp và bán hàng phải tràn đầy hang hái và
quyết tâm. Sẽ có vấn đề rắc rối về an ninh trong việc mang số tiền lớn đến các
ngân hàng. Liên minh cần quyền lực của nhân dân, và cần hàng trăm người tham
gia trợ giúp.
Tôi tha thiết mong các bạn sẽ tiến lên để hỗ trợ cho bạn bè
của chúng tôi trong trường hợp khẩn cấp này.
- Al Hubbard đã ký tên dưới bức thư, từ Văn Phòng Hội
Cựu Chiến Binh Phản chiến tại phòng 900, 1029 Đại Lộ Vermont. N.W. Washington,
DC, ngày ngày 20 tháng 4 năm 1971. Bức thư dược tìm thấy trong hồ sơ đối tượng
tại Ủy Ban An Ninh Nội Địa, Washington, DC
Hai ngày sau khi bức thư được viết ra, John Kerry đã thực
hiện một buổi làm chứng nổi tiếng của mình trước Thượng nghị sĩ Fulbright của
Ủy ban Đối ngoại, trong đó ông so sánh quân đội Mỹ tại Việt Nam với quân đội
của Thành Cát Tư Hãn. Cuộc tuần hành và biểu tình mà Hubbard đã được kêu gọi sự
hỗ trợ của Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến đã trở thành cuộc biểu tình với quy mô
lớn của Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình và Công Lý (PCPJ) vào ngày 24 tháng 4 ở
Washington, DC mà ngay lập tức theo sau là một cuộc biểu tình của Hội Cựu Chiến
Binh Phản chiến phản đối cuộc hành quân Lam Sơn 719 kéo dài một tuần. Tờ Thế
Giới Cộng Sản hàng ngày đã tường thuật vào ngày 27 tháng 4 rằng “Cống vật đặc
biệt đã được dùng để trả công cho vai trò đặc biệt của Cựu chiến binh Hoa Kỳ
từng tham chiến tại Việt Nam” đã tham gia vào cuộc biểu tình của Liên Minh Dân
Tộc Vì Hòa Bình và Công Lý (PCPJ), và chương trình tường thuật được tiếp nối
bằng phần trích dẫn bài phát biểu dài lê thê của John Kerry tại sự kiện đó.
Đối Tác Sẵn Sàng: Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến và Cộng Sản
Việt Nam
Có vô số những ví dụ khác về sự vận động của Hội Cựu Chiến
Binh Phản chiến cho vị thế của cộng sản Việt Nam trong thời gian John Kerry
lãnh đạo hội. Nhóm Phản Chiến đã ban hành một tuyên bố vào tháng Hai năm 1971
kêu gọi đại chúng bất tuân dân sự và binh biến quân sự nếu các lực lượng Mỹ
hành quân vào Lào. Sau chiến tranh, các nhà lãnh đạo quân sự Bắc Việt đã thừa
nhận rằng một trong những lo ngại lớn nhất của họ là Mỹ sẽ di chuyển lực lượng
đáng kể vào Lào để ngăn chặn đường mòn Hồ Chí Minh. Sự háo hức của Hội Cựu
Chiến Binh Phản Chiến trong việc tuân thủ các nguyện vọng của cộng sản Việt Nam
thậm chí còn mở rộng sự lựa chọn của danh mục. Ban Chấp hành Hội Cựu Chiến Binh
Phản Chiến đã nói trong một cuộc họp tháng 7 năm 1971 rằng các thuật ngữ như
“Việt Cộng” và “Cộng Sản Bắc Việt” đã không được sử dụng trong các thông cáo
báo chí của truyền thông và của Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến. Thay vào đó,
chúng ta chỉ sử dụng nhóm từ “Chính Phủ Cách Mạnh Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam
Việt Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” (Tức Cộng Sản Bắc Việt) để phản ánh sự
chấp nhận của chúng ta đối với các chỉ định của họ. Và Hội Cựu Chiến Binh Phản
Chiến vẫn không ngớt nhấn mạnh rằng các lực lượng Mỹ đã thảm sát hàng loạt
thường dân Việt Nam, là hành động lặp lại một cách hoàn hảo những luận điệu
tuyên truyền xuyên tạc sự thật do chính bọn cộng sản Việt Nam đưa ra và được
các đồng minh cộng sản quốc tế của họ hà hơi tiếp sức tuyên truyền, gồm cả
mẫu quốc Liên Xô của cộng sản Bắc Việt.
Kết luận
Các tài liệu mới được phát hiện giúp làm rõ sự liên minh ma
quỷ giữa của Bắc Việt, Việt Cộng , Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình và Công Lý
(PCPJ), Đảng Cộng sản Mỹ, và Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến của John Kerry.
Những cứ liệu đó đã chỉ ra rằng các tổ chức này đã làm việc chặt chẽ với nhau,
bằng cách sử dụng hòa đàm Paris như một trung tâm thông tin liên lạc, để sử
dụng các chiến lược và chiến thuật do cộng sản Bắc Việt hoạch định nhằm đạt
được mục tiêu chính của họ là đánh bại Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Biên dịch: Nguyễn Thu Trâm, 8406
No comments:
Post a Comment