Saturday, February 10, 2018

Hoàng Phủ Ngoc Tường_ Lời cuối... vẫn còn nói dối


Mạnh Kim
Đã định bụng không viết thêm gì về sự kiện Mậu Thân thì hôm nay đọc được bức thư của ông Hoàng Phủ Ngọc Tường gửi ông Nguyễn Quang Lập cậy đăng. Việc ông Tường có mặt ở Huế hay không thật ra không quan trọng. Ông có mặt hay không thì chiến dịch thảm sát vẫn xảy ra theo đúng kế hoạch sắp sẵn từ trước. Ông có mặt hay không thì danh sách nạn nhân cần được “tiêu diệt” cũng đã nằm trong túi áo đám sát thủ được phân công đi giết người. Ông có mặt hay không thì đống xương trắng của hàng trăm nạn nhân ở Khe Đá Mài vẫn trơ những hốc mắt kinh ngạc bàng hoàng như thể họ muốn hỏi, vào ngày đó; và muốn được trả lời, sau 50 năm, rằng “Tại sao tôi bị giết?”.
Việc không có mặt ở “hiện trường”, có thể được xem như là yếu tố “ngoại phạm” và là bằng chứng “vô tội”, thật ra là vô nghĩa. “Gây án” với lịch sử, dính dáng trực tiếp hay gián tiếp với lịch sử, không thuộc sự phán xét của một quan tòa. Nó thuộc sự đánh giá của dân tộc và sự phán xét của tòa án lương tâm. Tôi cảm nhận được sự dằn vặt của các ông trước những chỉ trích và cáo buộc dính dáng cuộc thảm sát. Tuy nhiên, 50 năm qua, ông Tường (và em trai của ông), cũng như ông Nguyễn Đắc Xuân, đã làm gì để sự thật được đưa ra ánh sáng? Các ông có biết ai là kẻ trực tiếp ra lệnh chiến dịch thảm sát, nếu có, tại sao không “tố giác”; nếu không, tại sao không kêu gọi một cuộc điều tra thủ phạm chóp bu thật sự, thay vì khổ sở thanh minh cho cá nhân mình? Nếu các ông không có tội thì ai là kẻ có tội và tại sao các ông “chịu tội” thay? Với tư cách những người hoạch định và tham gia chiến dịch, các ông biết những gì? Các ông đã kể lại những gì và còn che giấu những gì? Chưa lần nào, trong bất kỳ bài viết nào khi “hồi tưởng” sự kiện Mậu Thân, các ông giải thích vì sao có những hố chôn tập thể mà nạn nhân đều bị trói ngoặt bằng dây kẽm gai...
Tôi không lên án sự chọn lựa chỗ đứng lịch sử của các ông trong thời điểm đó. Thái độ và sự chọn lựa cách thức để nhìn lại mình của các ông hàng chục năm qua mới là điều cần quan tâm. Tôi không chỉ trích sự chọn lựa quá khứ. Tôi chỉ thắc mắc sự chọn lựa hiện tại và cách nhìn hiện tại khi nhắc lại quá khứ. Hàng chục năm qua, các ông vẫn chỉ gỡ tội cho cá nhân mình chứ không phải giải oan cho hàng ngàn nạn nhân, tiếp tục nhất mực rằng những “mất mát” đó là “ngoài ý muốn” và Mậu Thân vẫn là một “chiến thắng lịch sử” – như lời lặp đi lặp lại của Nguyễn Đắc Xuân. Thái độ hậu chiến và nhãn quan về tội ác chiến tranh của những người như Nguyễn Đắc Xuân đã khiến những kẻ hậu sinh như tôi xin được mạn phép thưa rằng, cho tôi gạt qua sự kính trọng cần có đối với người cao niên để thay bằng một cảm giác đối ngược.
Cách đây vài ngày, tôi nhắn một chị quen (người rất nổi tiếng; có người cha thuộc “bên kia chiến tuyến” chết trận trong chiến dịch Mậu Thân): “Thành thật xin lỗi chị với loạt bài về sự kiện Mậu Thân. Em tình cờ biết bác có tham gia chiến dịch. Thú thật với chị là em rất không muốn nhắc lại những câu chuyện đau lòng chiến tranh nhưng nhà cầm quyền chẳng bao giờ để yên. Họ liên tục khoét sâu mối hận thù chia cắt… Em tiếp xúc nhiều sĩ quan VNCH. Họ không như người ta nghĩ. Họ không muốn nhìn lại cuộc chiến. Khi nhắc đến chính sách chia rẽ suốt từ 75 đến giờ, họ khóc chị ạ. Điều này làm em rất phẫn nộ… Em viết chỉ vì quá bất mãn với sự hoan lạc vô tâm của họ. Em viết để mong họ chấm dứt vĩnh viễn điều này. Em xin lỗi làm chị đau lòng. Em xin lỗi tất cả những người đã ngã xuống vì cuộc chiến khốn nạn này”.
Tôi không ngăn được xúc cảm khi viết cũng như khi đọc những dòng trả lời: “Nhìn lại cuộc chiến ấy, phía nào cũng đau. Nhưng, nhà đương quyền phải làm gương cho mọi người, cùng mọi người tìm mọi cách để nỗi đau giảm đi theo năm tháng thay vì mỗi lúc lại rỉ máu... Gạch đá trên facebook cũng làm trái tim đau như khi ai đó nổi lại lửa hận thù trên TV, sân khấu dịp này em ạ. Có nhiều cách để nhớ mà, phải không em”.
Cuộc chiến Việt Nam là một cuộc chiến khốn nạn. Mậu Thân là chiến trường khốn nạn nhất trong cuộc chiến Việt Nam. “Hậu Mậu Thân” không chỉ là những xác người. Hậu Mậu Thân còn có những linh hồn chưa bao giờ được rửa. Hậu Mậu Thân còn có những người chưa bao giờ thật sự muốn rửa linh hồn mình.
1- Người dân Huế hoảng sợ chen nhau tại một khu tập trung (3-2-1968; Bettman/CORBIS)
2- Một phụ nữ ẵm đứa con nhỏ bị thương (11-2-1968; Bettman/CORBIS)
3- Bức ảnh nổi tiếng của Horst Faas (AP) chụp một phụ nữ gần một hố chôn phát hiện vào tháng 4-1969 phía Đông thành Huế. Cha, chồng và anh trai của bà đều bị bắt đi mất tích
4- Thành Nội tan nát sau những ngày giao tranh - AP
5- Hài cốt được lấy lên từ Khe Đá Mài - Patrick J. Honey Collection
6- Mãi đến năm 1971, một số hài cốt vẫn còn được phát hiện - Douglas Pike Collection
...
(Xin các anh chị không dùng từ ngữ quá nặng nề khi có ý kiến)
 
Người dân Huế hoảng sợ chen nhau tại một khu tập trung (3-2-1968; Bettman/CORBIS)
Hài cốt khai quật tại Khe Đá Mài
  Lê Khắc Ái Tự bạch nó không quan trọng đối với nhận thức của số đông nhưng lại rất quan trọng đối với ông Tường...Nhưng thực tế ông ta vẫn bộc lộ bản chất xảo trá tới phút cuối, không có thể hiện một người đã suy nghĩ thấu đáo về sự kiện đã xảy ra khi đã ở tuổi 81...Vẫn hình dung ông ta vừa đọc " sám hối" vừa ...liếm môi, mắt láo liên...Con người nó vậy rồi thì chỉ có thế mà thôi, chẳng ai thêm bớt được ...
Mồ tập thể đầu tiên bên Sông Hương 1968

2 tháng 2 2018  -Bài của Trung Úy Phil Gioia (có nhiều hình ảnh)
Nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường: Lời cuối cho câu chuyện buồn
 Minh Anh  Thứ Bảy, ngày 10/02/2018 11:31 AM (GMT+7)
(Dân Việt) Sau tất cả những gì không mong muốn mang đến trong cuộc đời liên quan đến sự kiện Mậu Thân 1968 ở Huế, mới đây, nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết bức thư ngỏ về những điều đáng tiếc xảy ra trong quá khứ như "lời cuối cho câu chuyện buồn". 
•        Ký ức Mậu Thân 68 và lời cầu nguyện cho những linh hồn đã khuất
•        Chiến dịch Mậu Thân 1968 và sự thật về nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường
•        Mở đầu bức thư, nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường viết: "Tôi đọc cho con gái chép một bài viết nhỏ này xin gửi tới bà con bạn bè thương mến, những ai yêu mến, quen biết và quan tâm đến tôi. Còn những kẻ luôn đem tôi ra làm mồi nhậu cho dã tâm của họ như ông Liên Thành và bè đảng của ông ta, tôi không muốn mất thời giờ đối đáp với họ. Dĩ nhiên bài viết này không dành cho họ.
Năm nay tôi 81 tuổi, và tôi biết, còn chẳng mấy hồi nữa phải về trời. Những gì tôi đã viết, đã nói, đã làm rồi trời đất sẽ chứng nhận. Dầu có nói thêm bao nhiêu cũng không đủ. Tốt nhất là im lặng bằng tâm về cõi Phật. Duy nhất có một điều nếu không nói ra tôi sẽ không yên tâm nhắm mắt. Ấy là câu chuyện Mậu thân 1968. Vậy xin thưa:
1. Mậu Thân 1968 tôi không về Huế. Tôi, TS Lê Văn Hảo và bà Tùng Chi (những người lên chiến khu trước) được giao nhiệm vụ ở lại trạm chỉ huy tiền phương- địa đạo Khe Trái (Thuộc huyện Hương Trà- tỉnh Thừa Thiên)- để đón các vị trong Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ Và Hòa Bình Thành Phố Huế như Hoà thượng Thích Đôn Hậu, cụ Nguyễn Đoá, ông Tôn Thất Dương Tiềm…lên chiến khu. Mồng 4 tết tôi được ông Lê Minh (Bí thư Trị- Thiên) báo chuẩn bị sẵn sàng về Huế. Nhưng sau đó ông Lê Minh báo là “tình hình phức tạp” không về được. Chuyện là thế. Tôi đã trả lời ở RFI, Hợp Lưu, Báo Tiền Phong chủ nhật… khá đầy đủ. Xin không nói thêm gì nữa.
2. Sai lầm của tôi là nhận lời ông Burchett và đoàn làm phim "Việt Nam một thiên lịch sử truyền hình” trả lời phỏng vấn với tư cách một nhân chứng Mậu Thân Huế 1968, trong khi tôi là kẻ ngoài cuộc.
Để chứng tỏ mình là người trong cuộc, tôi đã dùng ngôi thứ nhất- “tôi”, “chúng tôi” khi kể một vài chuyện ở Huế Mậu Thân 68. Đó là những chuyện anh em tham gia chiến dịch kể lại cho tôi, tôi đã vơ vào làm như là chuyện do tôi chứng kiến. Đặc biệt, khi kể chuyện máy bay Mỹ đã thảm sát bệnh viên nhỏ ở Đông Ba chết 200 người, tôi đã nói: “Tôi đã đi trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên thì toàn là máu ...Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra ..”. Chi tiết đó không sai, mà sai ở chỗ người chứng kiến chi tiết đó không phải là tôi, mà là tôi nghe những người bạn kể lại. Ở đây tôi là kẻ mạo nhận, một việc rất đáng xấu hổ, từ bé đến giờ chưa bao giờ xảy ra đối với tôi...
 Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Trọng Tạo năm 1986
...Tôi đã nói rồi, nay xin nhắc lại: Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu...
3. Từ hai sai lầm nói trên tôi đã tự rước hoạ cho mình, tự tôi đã đánh mất niềm tin yêu của nhiều người dân Huế đối với tôi, tạo điều kiện cho nhiều kẻ chống cộng cực đoan vu khống và qui kết tôi như một tội phạm chiến tranh.
Tôi xin thành thật nhìn nhận về hai sai lầm nói trên, xin ngàn lần xin lỗi.
Sài Gòn, ngày 1 tháng 2 năm 2018
Hoàng Phủ Ngọc Tường!
Lá thư của nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường đọc cho con gái viết.

oOo

"...Trong những ngày bồn chồn thấp thỏm, hơn một tuần sau chiến sự diễn ra ở Huế, tôi (nhà văn Trần Nguyên Vấn) được anh Trần Hoàn bảo chuẩn bị máy ghi âm và băng ghi âm, tài liệu để đi về Huế. Tôi mừng quá, chỉ thương cho Hoàng Phủ Ngọc Tường và Trần Vàng Sao không được về Huế dịp này. Tường chia tay tôi bằng cái nắm tay rất chặt, anh không nói gì. Nhìn cái mặt buồn của Tường tôi cũng không dám nói gì, sợ nói ra câu gì Tường chịu không thấu lại bật khóc, dễ bị qui là tiểu tư sản.
Đoàn chúng tôi theo tướng Lê Chưởng qua dốc Ông Ầm, qua vùng giáp ranh và các làng La Chử, Cổ Bưu, Trúc Lâm, An Ninh Thượng, An Ninh Hạ… Trụ sở Bộ chỉ huy chiến dịch đóng ngay trong vườn cũ của bà ngoại tôi ở xóm Guốc xã Hương Long. Nhạc sĩ Trần Hoàn cùng tôi về Kim Long và tôi đưa anh vào thăm nhà bác sĩ Hồ Văn Cang, nơi tôi trọ học năm 1952 – 1954 cùng một vài gia đình khác. Anh Trần Hoàn còn cho phép tôi tranh thủ lên thăm nhà ở Trúc Lâm, gặp bà nội, ba mạ và em trai tôi là Trần Ngọc Trác cùng nhiều bà con.
Một buổi chiều, máy bay trinh sát bay quẩn quanh trên xóm Guốc và bắn rốc két trúng vào chiếc micro tôi đặt trên miệng hầm để ghi âm tiếng súng tiếng bom từ Cửa Chánh Tây vọng lại. Sau đó Mỹ cho máy bay ném bom trong vườn bà ngoại tôi. Anh Lê Chưởng và anh Trần Hoàn đang ở trong một hầm vội nhảy lên vào một hầm khác khi bom nổ rất gần. Ngôi nhà vườn bên cạnh bị bom bốc cháy. Có mấy người dân trúng bom Mỹ chết.
Không chiếm được đài phát thanh. Tôi không còn việc gì phải làm. Tối hôm đó tôi theo đoàn của anh Lê Chưởng và anh Trần Hoàn về lại hậu cứ. Gặp lại anh Hoàng Phủ Ngọc Tường đang ở địa đạo Khe Trái, tôi kể cho anh nghe chuyến về Huế ngắn ngủi của tôi và chia sẻ nỗi buồn của anh. Cũng như khi chia tay, Tường không nói gì, chỉ nắm tay tôi rất chặt. Có lẽ khi nghe tôi kể chuyện Huế, Tường sợ anh bật khóc. Sau này tôi đọc Giải khăn sô cho Huế của Nhã Ca mới biết khi đó Tường đang có một cô người yêu ở Huế. Giá lúc đó biết chuyện này, tôi có thể khẩn khoản anh Trần Hoàn xin cho Tường về Huế. Anh Trần Hoàn tính hay mủi lòng, biết chuyện “Tường có người yêu đang đợi ở Huế” chắc sẽ tìm cớ cho Tường được về Huế.
Đã không được về Huế lại bị vu cho là “đồ tể” sát hại dân lành Huế, án oan ấy kéo dài nửa thế kỉ. Thật đáng sợ.
Hà Nội 9.2.2018
(Trích trong: Tết Mậu Thân 1968 ở Huế, Tường và tôi của nhà văn Trần Phương Trà, tức Trần Nguyên Vấn)
oOo
 Mậu Thân trong lòng cuộc chiến
(Trích Cũng cần có nhau)
clip_image001[1]
C H Ư Ơ N G   M Ư Ờ I
M ậ u  T h â n  T r o n g  L ò n g  C u ộ c  C h i ế n
            Có những cái tết xa nhà tuy cô đơn nhưng thật là cảm khái.  Nhớ đến cái tết xa nhà đầu tiên năm nào ở CPS:  Tất cả anh em bạn bè đều về quê ăn tết hoặc quay về vui xuân với mái ấm gia đình; chỉ còn Ngô Vương Toại và mình tôi trụ trì tất cả cơ ngơi vắng như chùa Bà Đanh của CPS.  Chiều ba mươi tết, hai đứa lộn mãi túi quần, vơ bèo vớt tép, được mươi trự (đồng bạc, nói theo tiếng Huế) rủng rẻng, cũng quyết định đóng bộ  thăm thú phố phường.  Chập choạng tối.  Trời vắng, lạnh như cõi lòng trống không.  Hai chàng lang thang ở miệt Bùng Binh rồi trốn về Chợ Cũ  (cóp-py bài học Việt sử – Gia Long Tẩu Quốc:lang thang ở vùng Cà Mau rồi trốn sang Xiêm).  Hai đứa hẩu xực hai tô mì hoành thánh, sắm thêm được một chai vang đỏ thưởng xuân là cạn lán.

Về nhà, cũng bày rượu đỏ cúng giao thừa kiếm vận hên.  Vỏ chai (sau khi đã cưa hết rượu) được vẽ vời cắt dán làm bình bông tuyệt đẹp.  Bẻ tạm bông sứ nhà nàng (nhà cô bé Phương) cho có hoa có hòe chưng ba ngày tết.  Và hai cu cậu máu văn chương nổi lên đùng đùng, cũng học theo tiền nhân làm câu đối tết.  Như vầy:
                              Tối ba mươi, đói nghiêng khát ngửa, diện áo quần đi chơi, quên hết mọi sự 
                            (xuất: Toại)
                            Sáng mồng một, đứng lên ngồi xuống, trùm chiếu chăn nằm ngủ, nhớ cả một đời
                           (đối: Sơn) 
Và còn hai câu khác nghe cũng tự thán lắm! Tự nhiên quên mất!
Cắt một manh chiếu rách, nắn nót viết câu đối cảm tác theo lối chữ Triện, treo hai bên cửa ra vào nhà.  Cứ thế mà tống cựu nghinh tân.  Vậy mà, sáng bảnh mắt mồng một tết, đã thấy cô Thái (em bà Thím của Toại) xông đất mang theo nào là hoa quả mứt bánh.   Bọn tôi dĩ nhiên mừng hết lớn, trong cơn tụng niệm ở hiền gặp lành.  Xế trưa, bầu đoàn thê tử CPS:  các anh Toàn, Cát, Điểu, Phùng . . . lục tục ghé ngang trụ sở, đọc câu đối của hai thằng khố rách, thương tình lì xì chút đỉnh phong bao đỏ.  Thế là tối hôm đó, từ kẻ hèn, bỗng đội lại lốt người sang, đủng đỉnh rượu chè bánh trái.
Năm Mậu Thân 68, tôi quyết định về Huế ăn Tết với mạ và gia đình.  Giang ra Nha Trang vui xuân với gia đình chị tôi đang theo chồng (quân nhân) đóng trụ nơi đó. Không hẹn mà gặp, Trịnh Công Sơn, Phạm Nhuận cũng về Huế năm này.  Tôi về tới Huế khoảng 25, 26 tết.  Hơn 5 năm xa nhà, về nhìn lại sông nước vườn tược, lòng nao nao một khúc ruột, một chặng đời xa xứ.  Huế vẫn muôn đời trầm lặng.  Không có gì thay đổi lớn ngoài bầu không khí vẫn rất thiêng liêng gần gũi của những ngày cận tết ở Huế, có thể thấy được, đọc được trên dáng đi, trong mắt trên môi người.
Sau khi con cái đi xa, mạ quyết định rời khu Tòa Khâm/Hàng Me/Lê Lợi về cư ngụ trong căn nhà hương hỏa nhỏ bên Ngoại, nằm phía bên tê múi Đập Đá. Trong nhà có mệ ngoại tôi, lúc ấy đã ngoài 80 nhưng nom còn khỏe mạnh lắm.  Và thêm gia đình chị Hoa với hai em Giêng/Hai, bà con xa, vẫn giúp việc cho nhà tự hồi tôi còn bé tí tẹo.
Về nhà với mạ nhưng không quên những cái hẹn đàn đúm ở nhà bạn.  Đó là cái nết, cái tật (dễ thương?) của bọn trẻ chúng tôi.  Cần bạn như cần hơi thở.  Mấy ngày trước Tết, tôi hay ghé nhà anh TCS ở đường Nguyễn Trường Tộ, gần cầu Phủ Cam.  Mặc dù hai gia đình đã là thân thuộc, đây là lần đầu tiên tôi được tiếp xúc, kề cận mọi người trong nhà anh Sơn.  Ai nấy đều hiếu khách, dễ mến, gây ấn tượng sâu đậm, quá tốt đẹp trong buổi đầu gặp gỡ.  Má anh TCS lịch thiệp, niềm nở, hay nhắc hay kể chuyện đời xưa.  Anh Hà, Tịnh đã quen mặt, rành rọt nhau tự chốn ăn chơi.  Và mấy người em gái TCS Thúy/Tâm/Ngân/Diệu/Trinh xinh xắn, hồn nhiên, dễ thân thiện.  Chị em líu ríu quấn quít bên nhau như chim.  Có đôi khi cãi lẫy nhau nhưng vẫn yêu thương nhau cùng cực tấm lòng rà ruột.  Tôi chưa thấy một gia đình nào có sự đoàn kết chặt chẽ như vậy: một đại gia đình sát cánh đùm bọc yêu thương nhau, liền lạc như chuỗi hạt kim cương bồ đề.
                             Đôi khi anh ngỡ mình là gió
                             gió tình cờ trở lại nhà em
                            gió đến rất thầm sau khung cửa
                            đón các em về buổi học tan
                            Nhớ Huế êm đềm mưa nghiêng sợi
                            thương màu áo dạ phố đông sang
                           buổi sáng em cười mắt ngái ngủ
                           đêm qua lạnh quá giữa mưa phùn
                             .  .  .  .  .  .
                            Bước chân phiêu lãng còn trên phố
                           buổi chiều tà có mắt ai trong
                           bàn tay năm tháng mềm như lụa
                           ngồi đây thương nhớ cũng tang bồng
Những hội ngộ thơ mộng. Đẹp. Và buồn. Và rồi cũng mong manh như cơn mưa phùn tan trong lạnh sớm.
Vâng! Có bao giờ niềm thương được trọn vẹn mãi mãi nơi chốn an lạc vĩnh hằng?
Gặp gỡ hôm này, chia tay hôm mai . . .
Lần về quê ăn tết này, tôi còn gặp được nhiều bạn bè cũ mới tại nhà anh TCS, thường là nơi tụ hội đông đủ.  Nào là Lê Hữu Bôi (trước, sinh viên tranh đấu – nay là công chức của Phủ Đặc Ủy Tị Nạn Cộng Sản) cùng vài người bạn dân sự có, quân nhân có đến từ Sàigòn.  Nào là Ngô Kha, Bửu Chỉ, Đặng Ngọc Vịnh, Hoàng Trang . . . dân Huế . Có Đinh Cường nữa thì phải? Hình như Cường đang dạy học ở Huế . Rồi Sơn lớn (TCS), Sơn nhỏ (HXS), Trịnh Xuân Tịnh, Hoàng Thi Thao, Phạm Nhuận . . .từ Sàigòn về.  Vậy mà trong cuộc gặp gỡ ấy có người bên này, bên kia khi giờ cuối ngã ngũ mới rõ ràng xanh đỏ.   Có cả Lê Văn Tài (LVT), một họa sĩ trẻ tuổi tài cao chuyên về thủy thái họa.  Tài vẽ rất đẹp.  Và lạ.  LVT là người trân quý bạn bè.  Mỗi một cuộc họp mặt, gặp gỡ bằng hữu đều được anh ghi lại một cách trang trọng đầy đủ tên tuổi bạn bè trên những tờ bích họa màu sắc, treo la liệt khắp nhà, xưởng vẽ . . .  LVT hiện nay đang định cư ở Úc Đại Lợi, tiếp tục vẽ và làm thơ (xin xem bài giới thiệu của Nguyễn Hưng Quốc trên Tạp Chí Thơ số mùa Xuân năm 2007).  Sau những gặp gỡ tiền trạm ở nhà TCS, Tài hẹn anh em tụ lại nhà Tài tối 29 tết ăn nhậu và xem những họa phẩm mới.  Nhà Tài ở gần cửa Thượng Tứ.
Chiều hôm đó, tôi đi phà từ Đập Đá qua chợ Đông Ba; thả bộ dọc phố Trần Hưng Đạo hướng về nhà Tài.  Tết năm nay người ta ở đâu mà đông đúc lạ kỳ.  Thiên hạ ngược xuôi, xôn xao mua bán chật cả phố Huế.  Có những khúc đường phải chen lấn mới đi lọt. Chợ hoa trước Ty Thông Tin kín nghịt người.  Hóa ra sau này mới vỡ lẽ: Bắc quân và lực lượng  nằm vùng cộng sản  đã chuẩn bị cài người, chuyển tải ngầm vũ khí trước tết, để sẵn sàng cho cuộc tổng công kích Mậu Thân 68.  Chẳng hiểu vòng đai an ninh thành phố Huế làm chi mà lỏng lẻo đến độ buông thả như vầy?!
Tới nhà Tài lúc sẫm tối, đã thấy có mặt đông đủ anh em.  Mỗi người một ly rượu cầm tay, xúm xít xem LVT vẽ một bức tranh mới.  Kỳ gặp gỡ này có tay Quân bên Biệt Động Quân hay Lực Lượng Đặc Biệt gì đó lái xe Jeep từ Đà Nẵng  về Huế với hai đàn em; áo quần mặt mũi tóc tai còn dính bụi đường.  Quân gạ Tài đổi bức tranh đang vẽ lấy hai vò mỹ tửu lớn.  Tài chịu ngay, và vật rượu ra cùng bằng hữu đánh tiếp.  Thương ơi, nghĩa cử của dân giang hồ hảo hớn!
Gần rạng ngày 30 mới tan cuộc.  Tôi say nhừ tử, phải nhờ bạn đèo về nhà.  May mà mạ thông cảm tết nhứt nên không la rầy.  Tỉnh rượu lúc mặt trời đã lên vài ba sào, đã lại nghe thèm . . . bạn.  Nhớ có cái hẹn tối mồng một Tết lên nhà TCS gặp anh em bạn đánh bài chơi.  Thôi thì 30 Tết ở nhà với mạ lo giúp đón rước ông bà, cúng quảy giao thừa rồi mồng một xuất hành cũng được.  Về thăm mạ mà bỏ đi chơi hoài cũng tội.  Nhưng rồi chứng nào vẫn tật ấy.  Gia đình và bằng hữu: vẫn muốn ôm tất cả trọn vẹn vào vòng tay thân thương! Đêm giao thừa và ngày đầu xuân nguyên đán trôi qua trong tĩnh lặng.  Đã hết rồi những háo hức đón tết của thời nhỏ nhít xa xưa.  Mấy ngày tết ở Huế trời nặng và buồn.  Không gian như có độ chì trĩu xuống phố xá, sông đồi.  Hình như một nỗi lo âu không tên gọi khởi đi từ tiếng vọng xa xăm, mơ hồ của tai ương và hệ lụy.  Đó chỉ là tâm cảm.   Chẳng mấy chốc mà thành điềm báo dữ của sự thật . Một sự thật kinh hoàng và tàn khốc: Biến Cố Mậu Thân Tang Tóc tràn đầy huyết lệ!
Tối mồng một tết Con Khỉ mới ra lò.  Cơm nước xong, khoác vội chiếc blouson ngắn, tay thọc túi quần,  tôi tà tà cuốc bộ lên nhà TCS theo lời hẹn.  Sương khuya bắt đầu thấm lạnh.  Qua hết con đập, đi thêm một đoạn ngang tới ngõ Hương Mỹ, tôi như linh cảm một điều gì không hay; vội vã quay trở về.  Về nhà nói với mạ con thấy trong người sao sao, thôi không lên nhà bạn nữa.  Mạ bảo thôi đầu năm đầu tháng đừng ở lại nhà người ta, sợ phiền hà kiêng cử.  Thôi ở nhà đợi cúng quải mâm cơm đầu năm xin tài lộc, cầu xin ông bà Trời/Phật phù hộ cho toàn gia.  Tôi ngồi nhà nhâm nhi ly rượu ngọt, rồi thiếp ngủ lúc nào không hay.  Giao thừa đã qua non một ngày rồi mà sao tiếng pháo vẫn còn nổ ran khắp bốn hướng đánh thức tôi dậy.  Nửa mơ nửa tỉnh tự hỏi không biết năm nay thiên hạ ăn tết lớn sao đốt pháo quá chừng chừng.  Nhưng hòa lẫn tiếng pháo là tiếng súng nổ cắc-cù đó đây.  Chừng một chốc sau là tiếng súng lớn, moọc chê đại bác dội ầm ầm. Mẹ con sợ quá vào nhà đóng cửa cài then, chui xuống hầm tạm trú ẩn.  Ở Huế thời điểm này nhà nào cũng làm tạm một cái hầm tránh đạn bằng bao cát vây quanh những giường phản gỗ cứng.  Và cũng tạm cho là yên lòng.  Nhưng tránh đâu cho được bom đạn vô tình không mắt!!??  Chị Hoa, Giêng/ Hai cũng rời căn phòng nhỏ đàng sau lên nhà trên tụ tập.  Tất cả mọi người đều nhớn nhác, lo sợ.  Tiếng pháo, tiếng súng rồi vẫn rơi đều trên giấc ngủ chập chờn của những sinh phần nhỏ bé.  Tờ mờ sáng mồng hai tết, mạ thức sớm ra sau bếp, thấy ông Bốn hàng xóm mặc áo dài đen ngồi lù lù một góc.  Mạ quở: Nì cái ông Bốn ni lạ đầu năm đầu tháng răng mà bận áo đen qua ngồi thù lu nhà người ta rứa, xui chết!   Ông Bốn đưa tay lên môi ra dấu nói khẽ, và thì thào: chị ơi, họ về rồi chị ơi,  đi đầy cả ngoài đường đó tề (Ông Bốn là cảnh sát viên, nghe động tịnh đã khôn hồn tìm đường lánh trước).
Cả nhà hí cửa dòm ra, thấy «phía bên kia" lố nhố từng toán người, lũ lượt đi lui đi tới.  Họ không vận sắc phục đồng nhất mà mặc áo quần đủ loại.  Băng đỏ đeo tay.  Súng ống trang bị tận răng.  Đấy là lực lượng du kích CS nằm vùng, chưa phải là bộ đội chính quy Bắc quân.  Cũng may họ đang loay hoay tìm nơi an toàn đóng chốt nên chưa có thời giờ lục soát, sục sạo từng căn nhà một.
Tôi có phần lo sợ.  Không biết mình đi học đi hành ở xa về thăm nhà có việc gì không hay xảy ra không?  Chắc sinh viên học sinh thì không sao!  Vậy mà nhờ Giêng còn nhỏ tuổi, chạy luồn trong xóm dò la tin tức, và biết được xóm dưới gần Vỹ Dạ du kích CS đã lùa tất cả thanh niên ra khỏi nhà, trói ké và dẫn đi về phía Ngọc Anh, Tây Thượng mất dấu.  Thế là tôi bàn với cả nhà, quyết định đào tẩu.  Nhớ hay không nhớ lời dạy cổ nhân: trong ba mươi sáu chước, «phú lỉnh» chiếm phần tiện nghi? Suốt cuộc đời tôi, đây là một quyết định thập phần đúng đắn liên quan tới sinh mệnh.  Giữa lằn ranh sống/chết, định mệnh là gì nếu không bắt đầu bằng một dấu chấm hỏi (?).  Bắt đầu bằng một giả dụ . Một chữ NẾU.
Nếu tôi vẫn tiếp tục ghé chơi và ngủ lại nhà TCS tối mồng một tết, biết đâu chẳng bị thảm sát như Lê Hữu Bôi dưới chân cầu Phủ Cam?  Nếu tôi không nghe lời em Giêng tìm phương lánh nạn, biết đâu không bị lùa đi nơi vắng vẻ, bị đập đầu thủ tiêu như chú Bửu Tương (con ông Ưng Hồi) giữa đồng mông Vỹ Dạ?  Hỡi ơi! Tai họa và ý trời.  Biết đâu mà lần tràng hạt . . .Nam Mô A-Di-Đà Phật.  Biết đâu mà cầu cứu Phật bà Quan Thế Âm linh ứng bồ tát!
Tôi khoác vội chiếc áo veston nỉ xám (chiếc áo mà Khánh Ly đã chọn mua cho lúc anh em la cà ở Khu Dân Sinh Sàigòn), chẳng kịp mang giày, xỏ đại dép, không kịp nói câu từ biệt với gia đình, tất ta tất tưởi, bôn ba tìm đường . . . . cứu lấy mình!!!!!!
Vì ăn phải đạn VC một lần, tôi như con chim bị ná, cắm đầu cắm cổ chạy mà hồn vía bay bổng lên mây.  Chao ơi cái Đập Đá thân thương ngày nào lê la tụng bài thi dưới mấy cột đèn sao nay bỗng dài lê thê, trùng thẳm đến thế! Hình ảnh một tôi bấy giờ chắc là bi thảm nhất trong cuộc đời: Hai tay xỏ hai chiếc dép, giơ cao khỏi đầu trong tư thế đầu hàng (đầu hàng ai?), chạy bán mạng qua đập đá hướng về phía Tòa Khâm.  Gió sông lạnh buốt hồn.  Đong đưa những đường đạn nheo nhắm rập rình đâu đó. Trời ơi đập dài, chân quíu,  sợ quá muốn . . . ướt đẫm quần.  Chạy gần tới mút bên kia mới hoàn hồn khi nhìn thấy chiếc nón sắt và màu áo trây-di thân quen (Ôi sắc phục này mà một thời những kẻ trốn lính trong thành phố phải thuộc nằm lòng câu nhìn xa trông rộng và kính nhi viễn chi!).  Lê Thế, bạn học cũ, nhập ngũ sớm, đứng đó, cầm súng gác đầu cầu như ông thần hộ mệnh.  Chao ơi là mừng hết lớn.  Như vậy là có cơ thoát rồi.  Như vậy trong tâm tưởng đã rạch ròi đâu là bạn đâu là thù.
***
Bạn Thế chỉ cho tôi tìm sinh lộ bằng cách hòa nhập vào dòng người tạm lánh cư ở Trường trung học Kiểu Mẫu gần Tòa Khâm. Bảo thêm: Theo đường lộ lớn mà đi.  Đừng đi tắt qua ngõ hẻm gặp binh sĩ Đại Hàn, có thể bị nghi là VC, bắn bỏ!  Trời Phật ạ!  Như vầy là từ bên ni múi Đập Đá trở lên phía Ga Huế, phe đồng minh vẫn còn trấn đóng khu vực này.
Vào tới trường Kiểu Mẫu đã thấy đông đảo đồng bào tị nạn. Hầu như tất cả phòng ốc đều được chiếm ngụ.  Quá đỗi vui mừng gặp lại Phạm Nhuận ở đây! Nhuận cũng nhất thân nhất bộ chạy giặc như tôi từ hướng Vỹ Dạ lên.  Kỳ này chàng ta về Huế mang theo nhiều bộ đồ vía.  Nhưng hỡi ơi, tất cả áo quần này đã bị một đường đạn lạc xuyên táo thủng từ đầu này sang đầu nọ (áo đi thay người).  Chiếc áo Nhuận mặc trên người còn mang dấu lỗ đạn. Nhuận và tôi kiếm được một góc phòng nhỏ tá túc qua cơn hoạn nạn.  Năm nay tiết đông xuân lạnh nhiều.  Không ai trang bị đủ đồ lạnh trong cuộc lánh cư hỗn loạn.  Mọi vật dụng đều được tận dụng để làm phương tiện sưởi ấm.  Bàn ghế gỗ được chẻ ra thay củi nhóm bếp lửa.  Sách vở, báo chí, tài liệu . . . thay gối chăn đắp đỗi tạm thời.  Và vật thực chi dùng  cho bữa ăn thật là hiếm hoi trong mấy ngày đầu lánh nạn.  Ai nấy đói meo!
An vị tạm thời xong, một nỗi lo sợ lớn lao khác lại tràn ập tới: vì mấy ngài du kích VC núp bên tê Đập Đá (phía nhà tôi) rập rình bắn sẻ qua phía bên ni trường Hạ Sĩ Quan (nơi trú đóng của lực lượng quân sự Hoa Kỳ & đồng minh), tin dữ đưa tới tối hôm đó là tất cả súng ống lớn nhỏ của phía đồng minh sẽ trực xạ san bằng múi đập Đá bên tê thành bình địa.  Trời ơi! Không biết số phần mệ, mạ và gia đình ra răng?  Chắc tiêu tùng hết quá?!  Ôi may thay, nhờ có một người tên Thư (em ruột chuẩn Tướng Thiện, mất tích) làm thông dịch viên cho Mỹ cố gắng thuyết phục lực lượng đồng minh nã súng, rót đạn vào sâu hơn phía những cánh đồng xa tận Lò Trâu, nơi có thể là hậu cần lớn của cán binh CS.  Chẳng qua anh Thư cũng có mẹ già và gia đình ở ngay múi Đập Đá cách nhà tôi không xa.
Ngày hôm sau gặp lại mệ, mạ, mẹ con chị Hoa chạy giặc lên khu Kiểu Mẫu.  Mừng mừng tủi tủi.  Ôm nhau khóc ròng.  Tội nghiệp mệ ngoại đã gần 80 mà vẫn rán chạy lếch thếch theo đoàn người lánh nạn.  Hôm ấy, gia đình Trịnh Công Sơn cũng từ Phủ Cam chạy xuống sau khi đã lội qua vài trạm núp lánh như Thư Viện Huế, Kho Bạc . . .Trịnh Quang Hà (em trai kế anh TCS) là quân nhân trực thuộc Quân Vụ Thị Trấn Huế được cắt gác coi sóc an ninh thường xuyên vòng rào trường Kiểu Mẫu, nên tin tức tình hình chung quanh cũng được thông báo nhậm lẹ.  Sinh hoạt ở trại tạm cư dần ổn định.  Thực phẩm được tiếp tế đều đặn hơn.  Nhưng cái khó khăn nhất vẫn là vấn đề vệ sinh cá nhân.  Tất cả nhà cầu đều tắt tị!  Mọi người đều ùa ra bãi sân cỏ sau lưng trường, làm một trong những công tác gọi là « Tứ Khoái » của nhơn loại.  Khi ấy không còn phân biệt già- trẻ- lớn- bé, nam thanh nữ tú. Tất cả mọi người đều bình đẳng.  Chỉ cần một tấm giấy (tùy thân?) che  lại bộ mặt trần tục là . . . xong (mình không thấy ai mà cũng nỏ ai chộ mình!).  Chỉ có anh TCS và tôi là không chịu hòa mình vào tập thể:  cắn răng, bấm bụng được một tuần thì cũng phải lần mò về nhà cũ (số 9 kiệt 1 đường Lê Lợi, cách trường Kiểu Mẫu một hai quãng đường) để giải quyết bầu tâm sự!
Hồi mạ dọn về Đập Đá, ngôi nhà ở Kiệt 1 Lê Lợi được nhường lại cho vợ chồng Thúy/Thiệu bà con gần.  Bác ruột tôi, thi sĩ Ngư Xuyên Hoàng Xuân Vịnh, vẫn có một phòng riêng trong nhà, ở chung với Thúy/Thiệu.  Mệ ngoại, mạ ở trung tâm Kiểu Mẫu độ dăm ngày, thiếu thốn phương tiện, lại phải quay về nhà cũ điều đình với Thúy/Thiệu xin tạm trú.  Vòng tay họ hàng quyến thuộc sẵn sàng rộng mở.  Tôi vẫn còn ở Kiểu Mẫu.  Thỉnh thoảng chạy đi chạy lại.  Cuộc chiến sôi sục vẫn tiếp diễn hàng ngày đây đó.  Phía Tả Ngạn Huế cộng quân hầu như chiếm đóng khắp nơi; từ An Hòa, Mang Cá, Đại Nội qua Gia Hội, Bãi Dâu . . . và đóng nhiều chốt ngay trong từng căn nhà của hai con lộ chính Phố Huế là Phan Bội Châu và Trần Hưng Đạo.   Bên này trường Kiểu Mẫu nhìn qua bên kia sông, trông rõ mồn một từng đợt tác chiến của quân đồng minh, hoặc bằng phi cơ chiến đấu, hoặc bằng phi pháo xuống vùng địch chiếm đóng.  Trong khuôn viên nhà trường, thỉnh thoảng tên bay đạn lạc cũng tìm kiếm đôi người vắn số.  Đại bác (vẫn) đêm đêm dội về thành phố.  Và đau lòng hơn hết cả là một hôm nửa đêm về sáng, mọi người nghe một tiếng nổ long trời lở đất:  sáng ra nhìn thấy một vai cầu Trường Tiền đổ gục xuống lòng sông Hương Giang.  Việt cộng tháo chạy giựt sập cầu!!!  Ôi đau lòng xót dạ xiết bao!  Hỡi ơi, cây cầu thơ mộng biểu tượng an lành thân thương của thành phố Huế, của một thời học trò ríu rít chân qua, rồi cũng có ngày tai ương gánh chịu.
                        Một ngày vào thuở xa xưa trên đất thần kinh
                        Người bỏ công lao xây chiếc cầu xinh
                       Cầu đưa lối cho dân nối liền cuộc đời
                       Khắp cố đô dân lành an vui ca điệu Nam Bình
                                      . . . . .
                        Cầu đưa ta đi sớm trưa tìm trong nắng mưa niềm vui ngày mùa
                        Hết lòng gìn giữ nhịp cầu nối liền tình người đẹp đời mai sau
                                  . . . . .
                         Ngày nào cầu đã đưa anh qua phố tìm em
                         Cầu đã đưa ta sang chỗ hẹn nhau .  .  .  .
                                . . . . .
                         Tình người về giữa đêm xuân chưa dứt cuộc vui
                         Giặc đã qua đây gây cảnh nổi trôi
                         Cầu thân ái đêm nay gẫy một nhịp rồi
                         Nón lá sầu khóc điệu Nam Ai tiếc thương lời vắn dài
                               . . . . .
     Cố nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng  đã chia sẻ nỗi đau thương Huế của anh của em của chúng ta bằng những lời ca não nuột như thế đó trong Chuyện Một Chiếc Cầu Đã Gãy.
Tình hình chiến sự phía hữu ngạn Huế dần yên ắng.  Đã thấy bóng dáng đoàn quân tiếp viện từ trung ương, những chiến sĩ Dù, Thủy Quân Lục Chiến, kể cả cán bộ Xây Dựng Nông Thôn đóng chốt nhiều nơi.  Tôi cũng rời trưòng Kiểu Mẫu trở về nhà Kiệt 1 Lê Lợi đoàn tụ với gia đình.  Một hai tuần sau đó, lực lượng các binh chủng Quân Lực Việt Nam Cọng Hòa và Đồng Minh đã lần lượt tái chiếm Nội Thành, đẩy lui Bắc quân và du kích VC khỏi các vị trí tạm chiếm đóng trong và ngoài Thành Phố Huế.  Toàn bộ cố đô Huế đã được giải thoát sau gần hơn hai tháng trời chìm trong lửa đạn tang tóc.
Trong khoảng thời gian này, tôi rất ngạc nhiên khi thấy Đinh Bá Ái, một thành viên của Quán Văn, theo chân đoàn cứu trợ nạn nhân chiến cuộc từ Sàigòn vào đến Huế; tìm được ngay chóc địa điểm nơi tôi và gia đình lánh nạn (có lẽ do Hoàng Xuân Giang chỉ dẫn). Ái khuyên tôi nên gia nhập các toán thiện nguyện làm công tác vệ sinh thành phố để sớm tìm phương tiện trở lại Sàigòn.  Tôi xung vào toán công tác trú đóng thường trực ở Bệnh Viện Huế. Trong toán chỉ có nhạc sĩ Miên Đức Thắng là người quen biết cũ. Những người bạn mới cũng rất dễ thương, cùng nhau công tác trong tinh thần chia sẻ và đùm bọc. Có những bạn như Hoàng Công Hối (Trung kỳ), Khanh (Nam kỳ), Bảo Hạnh (Bắc kỳ, dược sĩ, về sau là bà Miên Đức Thắng) v.v. đã kết nên thân tình bằng hữu, lúc trở lại Sàigòn.
Huế sau Mậu Thân, cả một trời hoang tàn đổ nát.  Không khí tang tóc u uẩn bao trùm khắp nơi.  Xác người còn nằm vướng vất đó đây dưới mương rạch, bên ghềnh đá, trên đầu thành quách . . .; tứ chi không còn nguyên vẹn!
                                Như khúc phim thời sự nóng bỏng
                                Đ trở về một chuyến đi thật xa
                                buốt tê từng ngách kỷ niệm
                                vũng nước đọng có nằm yên trong đêm xuân lửa bừng bừng?
                                trăng hóa điên một tầng xạ ảnh
                                có T có X hung hăng nhảy xuống đường
                                em thơ vùi chôn đáy dầu cặn
                                màu trời đục mắt cá ươn
                                người cụt đầu trên tháp canh già hơn đại thụ
                                xin để yên
                                xin để cho Huế muôn đời thầm lặng
Bọn tôi hàng ngày trang bị dụng cụ thuốc men đầy đủ xông vào các hang cùng ngõ hẻm làm công tác cứu trợ.  Có rất nhiều mồ chôn tập thể được khai quật.  Chúng tôi đã chứng kiến tận mắt những xác người bị chôn sống bị trói ké dính chùm với nhau bằng đủ mọi thứ dây nhợ, có khi bằng cả kẽm gai.  Xác này nối xác kia được lôi ra khỏi lòng đất tăm tối.  Những chiếc sọ người còn thủng lỗ lớn sau những cú nện bất ngờ bằng chày vồ/xẻng cuốc của phường sát nhân! Kinh hoàng khiếp đảm quá!!!!!!!
Lúc cộng quân rút đi, và ngay cả thời gian chiếm đóng Huế, họ đã thủ tiêu hàng ngàn người dân vô tội.  Những nơi có mồ chôn sống tập thể vĩ đại phải kể đến Nam Hòa, Phú Thứ, Bãi Dâu, Nam Giao và vùng hẻo lánh phụ cận Huế [1].  Có người thuật lại ở các vùng này đêm đêm còn nghe tiếng kêu khóc rền rĩ vọng từ lòng đất. Đó là những thân người non yếu, trong tay không một tấc sắt, bị lùa xuống mồ chôn tập thể mà vẫn còn thoi thóp nuối vọng chút hơi thở trần gian??!!! Có phải đây là một trong những tội ác chiến tranh ghê tởm và có tầm vóc nhất trong lịch sử tội ác nhân loại?
Vì đâu hàng ngàn người dân Huế vô tội bị thảm sát trong cuộc chiến Mậu Thân? Lúc cộng quân tiến chiếm thành phố Huế, họ đã sử dụng những mũi nhọn xung kích toàn là đám người bất mãn, mang lòng thù hận cá nhân (hoặc bị mê hoặc bởi tuyên truyền mật ngọt bỏ theo về phía bên kia), tạo thành một lực lượng chỉ điểm hùng hậu cho công cuộc tố giác giết chóc không ngừng.
Là người con dân Huế nói riêng và Việt Nam nói chung, ai mà không đau lòng xót dạ cho tấm thảm kịch nhuốm đầy máu và nước mắt này!  Nhưng:  liệu những khuôn mặt trí thức Huế trở cờ, một thời được nuôi nấng bởi cây trái Kim Long/Nguyệt Biều, bởi hồn thiêng sông núi Hương Bình có đứng trong hàng ngũ điểm chỉ viên xung trận của cộng quân?  Và liệu những kẻ này còn được sự bình tâm trước lịch sử, sự thật và lương tri con người?  Toàn là kẻ sĩ tăm(tai) tiếng của thời đại cả đấy.  Những kẻ sĩ ném đá giấu tay, ngụy tạo thông tin, chối tội đây đẫy trong khi tay đã nhúng chàm, máu và nước mắt.  Ôi!  Đâu mất rồi đức "Liêm Khiết Của Trí Năng”?!  Nhắc đến bọn người chơi với quỷ này không thể nào không nhớ một bậc tự xưng và thậm xưng trong pháp giới tu hành.  Vị này cũng mắc cái bệnh huênh hoang.  Đã một đời đi với bụt rồi mà còn lóng ngóng theo ma bận áo giấy, bởi vì tu tập với lòng tà; còn tham sân si đầy mình.  Ôi cùng sinh quán với kẻ này đấy.  Xấu hổ làm sao.  Và xấu hổ cho chính mình đã có hồi ngưỡng mộ thần tượng (dỏm).
Chiến tranh gây nên chết chóc, mất mát, tang tóc là điều hiển nhiên.  Nhưng chiến tranh cũng làm thất điên bát đảo kẻ sống còn. Ai tỉnh ai điên giữa lòng đau thương ngút ngàn.  Như một chứng nhân, Trịnh Công Sơn đã viết được những ca khúc từ kinh nghiệm bản thân trong lòng cuộc chiến, sẽ mãi là tư liệu cho cuộc chiến Mậu Thân thảm khốc.  Lời và nhạc chuyên chở nhiều hình ảnh và âm sắc mạnh mẽ:
                     Chiều đi lên đồi cao hát trên những xác người
                    Tôi đã thấy tôi đã thấy trên con đường  người ta bồng bế nhau chạy trốn
                   Chiều đi lên đồi cao hát trên những xác người
                   Tôi đã thấy tôi đã thấy bên hố hầm một người mẹ ôm xác đứa con
                   Mẹ vỗ tay reo mừng xác con – Chị vỗ tay hoan hô hòa bình
                   Người vỗ tay cho thêm thù hận – Người vỗ tay xa dần ăn năn  . . .
                                                                          (Hát Trên Những Xác Người)
Xác người nằm trôi sông – Trôi trên ruộng đồng – Trên nóc nhà thành phố – Trên những đường quanh co
Xác người nằm quanh đây – Trong mưa lạnh này – Bên xác người già yếu – Có xác còn thơ ngây
Xác nào là em tôi – Dưới hố hầm này – Trong những vùng lửa cháy – Trên những vồng ngô khoai   . . .
                                                                       (Bài Ca Dành Cho Những Xác Người)
Ngày ngày bọn tôi đi kiểm chứng thi hài.  Tối tối về bệnh viện giải trừ cơn xung động bằng những cơn say tít mù.  Toàn là rượu đế thứ thiệt.  Mấy anh bạn người Nam tửu lượng cao, uống khiếp! Đế hàng chục lít, đong bằng chén ăn cơm.  Cứ thế quay đều quay đều quay đều . . . quay tít thò lò.  Sức tôi chỉ vài ba chén là hoắc cần câu, nằm quay cu lơ.  Ngoài nhậu nhẹt ra còn tụ tập hát hò đủ các loại nhạc từ TCS, Phạm Duy . . . tới nhạc lính, nhạc sến, nhạc chế.  Ôi thôi cũng gượng vui cho qua ngày đoạn tháng.  Bảo Hạnh hay bày trò chơi tập thể.  Như vỗ tay đánh chuyền, miệng gọi tên nhau thân ái.  Bởi vậy mà nên duyên vợ chồng với Miên Đức Thắng sau này. Tôi cũng dần dà kết thân với Hối, Khanh.  Các bạn này lúc trở lại Sàigòn cũng gia nhập vào đại cái bang Quán Văn đã tới hồi chung cuộc.
Tôi mày mò trở lại thành đô bằng một chuyến bay nhỏ ghé qua Đà Nẵng. Trên máy bay có Thượng Tọa Mãn Giác và một phái đoàn Phật Tử. Cùng đi với tôi có Tâm (tóc) Quăn, một bạn Huế bên Nông Lâm Súc,  đã biết nhau từ thời trung học.  Có bạn đồng hành cũng đỡ nghe lạc lõng (Tâm ơi Tâm ơi chừ ở mô?).  Tới Đà Nẵng bọn tôi tháp tùng Thầy Mãn Giác và chúng Phật Tử vào một ngôi chùa nhỏ thọ trai và tá túc qua đêm. Thượng Tọa Mãn Giác người trắng trẻo, đôn hậu và rất hoạt bát.  Người rất được giới Phật Tử hâm mộ.  Vài năm trước đây hay tin người đã viên tịch về chầu Phật Tổ.  Xin thắp một đóa sen lòng tiễn đưa người về Tây Phương Cực Lạc!
Sáng hôm sau mọi người ra phi trường, được chuyển tiếp sang máy bay quân sự lớn bay về Sàigòn.
Ôi Mậu Thân tan tác muôn đời là một ám ảnh khôn nguôi trong tâm thức người chạy nạn, trong đó có tôi dự phần.
______________________________________________________________________________
[1] Phụ đính:
TỔN THẤT NHÂN MẠNG TẾT MẬU THÂN 1968 Ở HUẾ
-Tổng số dân sự tử vong: 7600 người chết lẫn mất tích
-Chiến trường: 1900 bị thương vì chiến cuộc, 944 thường dân chết vì chiến cuộc
-Nạn nhân của những vụ giết tập thể:
-1173 tử thi tìm thấy trong đợt đầu sau cuộc chiến 1968
-809 tử thi tìm thấy trong đợt nhì, kể cả tìm thấy trong đụn cát tháng 3&7 – 1969
-428 tử thi tìm thấy trong đợt ba, trong Khe Đá Mài khu Nam Hòa (tháng 9-69)
-300 tử thi tìm thấy trong đợt thứ tư ở vùng Phú Thứ (tháng 11-69)
-100 tử thi tìm thấy nhiều nơi khác trong năm 1969
-1946 người mất tích, tính đến năm 1970
(Tuệ Chương Hoàng Long Hải, theo Douglas E . Pike  –
Trích dẫn từ Wikipedia)
oOo
Thư của một học trò Liên Thành gởi Thầy Hoàng Phủ Ngọc Tường
Thưa Thầy,
Con là Liên Thành, là một học trò cũ của Thầy tại lớp Đệ Nhị B2, trường Quốc Học niên khóa 1958-1959. Có lẽ bây giờ vì tuổi đời đã cao hơn nữa thân mang bệnh tật nên Thầy không còn trí nhớ tốt, vì vậy con xin nhắc lại đây những kỷ niệm của bọn con lớp Đệ Nhị B2 niên khóa 58-59 tại trường Quốc Học Huế đối với Thầy.


Đứng ngoài cùng bên trái là học trò Liên Thành (x) thời gian học với Thầy Hoàng Phủ Ngọc Tường tại trường Quốc Học Huế
Thưa Thầy,
Lớp Đệ Nhị B2 tụi con có khoảng 50 đứa. Tụi con học ban Toán nên môn Việt Văn thường không hấp dẫn và cũng không làm chúng con quan tâm lắm. Chúng con thỉnh thoảng bỏ lớp trốn học kéo nhau sang Lạc Sơn ngồi nhâm nhi ly café, cảm thấy thú vị hơn phải ngồi nghe giảng dạy môn Vạn Vật, Anh Văn v.v… Thế nhưng đối với môn Việt Văn của Thầy dạy thì lũ chúng con không thiếu một đứa nào trong lớp. Cả lớp im lặng ngồi há miệng say mê nghe Thầy giảng bài, nghe Thầy nói văn chương chữ nghĩa, nghe Thầy giải thích điển tích. Có thể nói trí nhớ của Thầy siêu đẳng.
Thầy có tài ăn nói lôi cuốn người nghe, và đặc biệt Thầy có một vóc dáng thư sinh, khuôn mặt hiền từ, mái tóc bồng bềnh của một thi sĩ, một người lãng mạn nhẹ nhàng.Thầy vào lớp, không sách, không vở, không tài liệu cầm tay. Thầy nói thao thao bất tuyệt về văn chương, chữ nghĩa thơ phú, điển tích xa xưa, đến những bài thơ cổ, cả lớp vẫn ngồi im lặng say mê nghe Thầy nói.  Và ngoài ra Thầy còn giảng dạy cho chúng con những điều phải trái, tư cách làm người, đạo đức. Thầy quả là có một tấm lòng nhân hậu thương yêu mọi người…
Rồi thời gian qua nhanh, đất nước không còn có được những ngày tháng thanh bình. Người Cộng Sản miền Bắc phát động cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam. Lũ chúng con, những thằng học trò cũ của Thầy, cùng với các thanh niên cùng trang lứa tại khắp bốn vùng chiến thuật Miền Nam, xếp bút nghiên xông vào chiến trận cùng nhau gánh vác khổ nạn của quê hương. Chúng con chiến đấu không mang mặc cảm làm tay sai cho ai, không bao giờ nghĩ mình là lính Ngụy. Chúng con chiến đấu không vì hận thù. Chúng con chiến đấu chỉ vì lý tưởng, vì quê hương, vì xứ Huế dấu yêu. Lớp Đệ Nhị B2 của Thầy có năm mươi thằng học trò. Thầy biết không, tàn cuộc chiến chúng con chỉ còn lại dăm ba thằng. Hầu như tất cả đã ngã gục ngoài chiến trường, ngã gục trước lằn tên mũi đạn của những đồng chí Cộng sản với thầy, để bảo vệ đồng bào làng xóm thân yêu, trong đó có cha, có mạ, có chị, có em, có hàng xóm gần, láng giềng xa, có xứ Huế, có sông Hương núi Ngự, có cầu Tràng Tiền sáu vài 12 nhịp.
Thầy còn nhớ Văn Đình Tùng không? Tùng có biệt danh Tây Lai  bạn cùng lớp với con, Mễ, Huấn, v.v. Năm học Đệ Nhất B5 hắn đi khóa 18 Võ Bị cùng với Lê Văn Mễ, Lê Huấn, còn con ở lại học tiếp cho xong Tú Tài II sau đó quyết định vào Thủ Đức. Ra trường Võ Bị hắn làm sĩ quan Điều Không của Sư đoàn 18, sau đó đi Mỹ học khóa đại đội trưởng. Từ Mỹ về, Trung Úy Văn Đình Tùng ra làm Đại Đội Trưởng Đại đội Trinh Sát Sư Đoàn 2. Trong một cuộc hành quân đại đội hắn nhảy xuống vùng mà tin tức tình báo sai lạc, Đại Đội hắn bị hai tiểu đoàn quân thù vây kín, hắn bỏ súng nhỏ ôm súng lớn, súng đại liên bắn chận quân thù cho lính thoát thân. Lính chạy thoát được còn hắn bị quân thù đâm trên 100 nhát dao. Hắn chết đứng sừng sững giữa trời, hiên ngang như Từ Hải chết trong truyện Kiều mà thầy đã dạy tụi con.
Cố Đại Úy Văn Đình Tùng Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân!
Còn nữa, một thằng học trò nữa mà thầy không thể quên hắn, vì hắn là thằng phá phách nhất lớp Đệ Nhị B2, năm sau lên Đệ Nhất B5 và đi Khóa 18 Võ Bị. Hắn là Lê Huấn. Hành quân Hạ Lào hắn là Trung Tá Tiểu Đoàn Trưởng, và hắn cũng trở thành Cố Đại Tá Lê Huấn Vị Quốc Vong Thân.Thưa Thầy, năm mươi đứa học trò của thầy ở lớp Đệ Nhị B2 đa số đều như Văn Đình Tùng, Lê Huấn.
Trước tháng 6/1966, con ở lính tại Chi Khu Nam Hòa. Tình cờ trong một lần hành quân để di tản đồng bào từ làng Lương Miêu, Dương Hòa, mật khu của Việt Cộng, đưa đồng bào về vùng an ninh của VNCH, cuộc hành quân phối hợp với một trung đoàn của Sư Đoàn I Bộ binh, con gặp một vài thằng bạn trong lớp Đệ Nhị B2 như Trung Úy Nguyễn Tần, Đại Đội Trưởng, Thiếu Úy Trần Vĩnh, Tiền Sát Viên Pháo Binh, và một vài thằng nữa. Trên bước đường xuôi ngược của người trai thời loạn, gặp nhau quả thật xúc động. Chúng con ngồi kể chuyện xưa, chuyện học trò, chuyện trường Quốc Học. Chúng con nhắc đến tên Thầy với niềm kính trọng và trìu mến như chạm vào một kỷ niệm đẹp của tuổi học trò.
Thế nhưng, định mệnh thật trớ trêu. Bẵng đi vài năm, vào tháng 6 năm 1966 khi cuộc phản loạn của Trí Quang, Đôn Hậu tại Huế đang ở giai đoạn cao điểm, con từ Chi Khu Nam Hòa về giữ chức vụ Phó Trưởng Ty Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc Ty CSQG Thừa Thiên-Huế, một đơn vị nhỏ trong đại đơn vị của Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan dẹp loạn Miền Trung. Con quá ngỡ ngàng Thầy lại ở trong hàng ngũ phản loạn tiếp tay cho Cộng sản tàn ác chống lại chính quyền Quốc Gia.
Đời sống thật quả thật có những tình cờ oái ăm làm cho con người gặp nghịch cảnh phải cứng họng, cứng lưỡi chẳng thốt lên được một lời nói nào. Đó là trường hợp của con lúc bấy giờ. Vì hai người nguy hiểm nằm trong hàng ngũ địch phá rối trị an tại Huế lúc bấy giờ, một người là Thầy của con, Thầy Hoàng Phủ Ngọc Tường, và người kia là bạn học từ những năm học tiểu học tại trường tiểu học Nam Giao là Nguyễn Đắc Xuân.
Con sẽ phải đối phó với họ bằng những hành động thẳng tay nhất. Những kẻ theo giặc, nếu bắt sống được họ, thì phải bỏ tù họ và đày đi Côn Đảo với đề nghị bản án nặng nhất, còn nếu phải chạm súng, con sẽ phải dùng hỏa lực mạnh nhất để triệt hạ ngay.
Trong hồ sơ cá nhân của Thầy và Nguyễn Đắc Xuân mà lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt do con chỉ huy đã sưu tầm cập nhật, thì Thầy là cán bộ trí vận hoạt động trong giới học sinh, sinh viên tại Đại Học Huế, và trong lực lượng phản loạn của Trí Quang và Đôn Hậu. Thầy là người của Khu Ủy Khu 5 Việt Cộng, và cán bộ Cộng Sản chỉ đạo của thầy là Hà Kỳ Ngộ bí danh Thành, có phải vậy không Thầy?
Về Nguyễn Đắc Xuân thì hắn cũng hoạt động trong tổ trí vận của cơ quan Thành Ủy Huế. Hắn phụ trách về học sinh, sinh viên Đại Học Huế. Cán bộ Cộng sản chỉ đạo hắn là Hoàng Kim Loan, Thành Ủy Viên Thành Ủy Huế.
Tóm lại Thầy và Nguyễn Đắc Xuân là hai tay nằm vùng thứ thiệt của Cộng sản từ năm 1963 và cũng là hai tay rường cột của Trí Quang và Đôn Hậu trong mọi cuộc dấy loạn từ 1963 đến 1966, và Mậu Thân 1968 tại Huế.
Thưa Thầy
Đã có điều gì làm cho Thầy bất mãn trong đời sống hằng ngày của một sinh viên Đại Học Sư Phạm thuộc trường Đại Học Sàigòn? Chính phủ VNCH thời đó đã cấp học bổng cho Thầy ăn học với số tiền là một ngàn năm trăm đồng (1500$) mỗi tháng, như Thầy đã viết trong hồi ký:
Năm 1957, tôi vào ở Sàigòn, trọ tại cư xá sinh viên Miền Trung ở đường Bùi Quang Chiêu (nay là đường Đặng Thị Thu). Sáng nào cũng ăn phở Bắc Hà ở tiệm Trường Ca đường Yersin ngay đầu phố. Học bổng sinh viên Đại học Sư Phạm khóa I được 1500$ một tháng, mà trong khi đó tô phở chỉ có một đồng (1$), nên xem ra tôi sung sướng hơn sinh viên bây giờ. Sáng nào cũng ăn phở, mỗi tháng chỉ mất 30$.
   (Hoàng Phủ Ngọc Tường tuyển tập 1. Trang 28)Đã có điều gì làm cho Thầy bất mãn trong đời sống hằng ngày sau khi tốt nghiệp trở thành một thầy giáo trung học đệ nhị cấp? Chính phủ VNCH bổ nhiệm Thầy dạy các trường lớn như trường Quốc Học, Đồng Khánh, và với đồng lương của một giáo sư có bằng Đại Học Sư Phạm bốn năm Thầy có thể ăn bao nhiêu ngàn tô phở buổi sáng?
Thầy cũng đã sống, đã hưởng những ngày tháng sung túc về vật chất, và thanh bình tốt đẹp của Miền Nam Việt Nam, bên cạnh người tình xinh đẹp dịu dàng Tôn Nữ Bảng Lãng. Vậy thì tại sao và cái gì đã biến đổi Thầy từ một vị thầy giáo được học trò kính mến, một nhà trí thức đúng nghĩa, một nhà giáo đạo đức hiền lành trở thành kẻ tàn bạo vong ơn bội nghĩa, trở thành người Cộng sản sắt máu man rợ, tại sao vậy Thầy? Tại sao? và Tại sao?…
Chúng con, những thằng học trò cũ của Thầy, nghĩ mãi không ra, không có lý lẽ nào nghe được. Chỉ có thể kết luận có lẽ Thầy bị bệnh hoang tưởng, bệnh ảo tưởng nghĩ rằng Cộng Sản Miền Bắc là thiên đàng hạ giới, là chế độ biết chiêu hiền đãi sĩ, là nơi để cho Thầy phát huy tài năng hiếm có của mình chăng? Chủ thuyết Cộng sản lôi cuốn mê hoặc Thầy đến thế hay sao? Và một điều ngạc nhiên lạ lùng là cái gì đã biến đổi Thầy từ bản chất của một người hiền lành, nhân hậu, thành một tên dối trá không ngượng miệng, một ác quỷ giết người không gớm tay. Thầy say máu người còn hơn ác quỷ Dracula.
Chẳng lẽ thầy bị bệnh điên loạn, bệnh “thần kinh thương nhớ”? Hay Thầy cũng giống như tên PolPot lãnh tụ Khmer Đỏ, một trí thức cũng như Thầy, đã ra tay giết gần 2 triệu đồng bào Khmer của hắn ta để thực hiện Chủ Nghĩa Cộng Sản sắt máu mới thỏa lòng hả dạ. Thật tình chúng con không hiểu nổi tại sao Thầy lại biến đổi nhanh như vậy.
Thưa Thầy chắc hẳn Thầy không bao giờ quên sau năm 1975 tại Huế, trong một buổi trà dư tửu hậu tại một nhà người bạn với rất đông bạn bè của Thầy tham dự. Một trong những người bạn thân nhất của Thầy, người đã từng hoạt động với Thầy trong tổ trí thức vận, kẻ đã từng chuyển tờ báo “Việt Nam Việt Nam” của Thầy vào Quy Nhơn, vào Sàigòn là Giáo sư Bửu Ý, cũng là thầy dạy Pháp Văn của tụi con ở lớp Đệ Nhất B5 tại trường Quốc Học, ông ta đã chỉ vào mặt Thầy và nói rất nặng lời. Con xin lỗi thầy phải nói lại nguyên văn lời Thầy Bửu Ý nói với Thầy như sau:
Tường, mi là một thằng trí thức sắt máu hèn hạ, giờ nầy mi chưa sáng mắt, còn chạy theo liếm đít Đảng nữa hay sao?”Có lẽ Thầy Bửu Ý vẫn chưa hiểu hết con người Thầy Tường, vì Thầy Tường hoạt động cho Cộng sản từ trước năm 1963. Đến năm 2003 mặc dầu đã cố gắng phục vụ Bác và Đảng, tạo được biết bao nhiêu thành tích, bao nhiêu công trạng hiển hách, giết được vô số Mỹ Ngụy, trong đó phải kể đến công trạng to lớn nhất của Thầy Tường đối với Bác và Đảng là tàn sát dân Huế trong Mậu Thân 1968, lập Tòa Án Nhân Dân chôn sống cả trên 200 tên phản động, vậy mà vẫn chưa được Bác Đảng cho Thầy trở thành đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam. Công chưa thành danh chưa toại, nên Thầy Tường phải tiếp tục sự nghiệp dang dỡ, tiếp tục hạ mình luồn cúi đến cùng để đạt được cái thẻ Đảng. Chỉ vậy thôi thưa thầy Bửu Ý! Xin cho con trả lời câu hỏi trên của Thầy về Thầy Tường.
Mấy năm gần đây khi Thầy lâm trọng bệnh phải ngồi xe lăn, nghe nói Thầy đã được bọn chúng cho Thầy vào Đảng. Thầy đã có thẻ đảng trở thành đảng viên Cộng sản, con cũng mừng cho Thầy là dù sao cuối đời cũng đạt được ý nguyện. Chúc mừng Thầy!…. Chúc mừng Thầy!…
Có lẽ mộng ước của một kẻ trí thức như Thầy muốn lưu lại một cái gì đẹp đẽ cho đời sau về mình, về dòng họ mình. Nhưng thưa Thầy, Thầy đã khôn một thời và dại một đời. Thầy và thằng em ruột của thầy là Hoàng Phủ Ngọc Phan đã lưu lại cho hậu thế và lịch sử những nguyền rủa, phỉ nhổ, kinh tởm vào cá nhân hai anh em Thầy và làm xấu hổ cho dòng họ của Thầy. Những nấm mồ tập thể của dân Huế còn đó thì tội lỗi của cả hai anh em Thầy nhúng tay vào máu dân lành vô tội Huế Mậu Thân 1968 vẫn còn đó. Cái mà Thầy đã làm cho dòng họ mình đó là dòng họ Thầy phải gánh chịu tội ác không bao giờ tẩy rữa được này.
Thưa Thầy, dân chúng làng Bích Khê, quận Triệu Phong tỉnh Quảng Trị, nơi nguyên quán của Thầy, họ đã từng hãnh diện là tại làng Bích Khê có được một dòng họ Hoàng Phủ.
Lịch sử đã ghi vào năm 1882, Henri Rivière hạ thành Hà Nội lần thứ hai, Tổng Đốc Hoàng Diệu thắt cổ tử tiết vì không giữ được thành. Vị phụ tá Tổng Đốc Hoàng Diệu là quan Tuần Vũ Hoàng Hữu Xứng đã tuyệt thực để tạ tội với Vua, tạ lỗi với đồng bào vì đã không làm tròn nhiệm vụ Vua giao, và ông chỉ ngưng tuyệt thực khi Khâm Sai Đại Thần Trần Đình Túc mang Chiếu Chỉ của Vua Tự Đức ra Hà Nội lệnh cho Tuần Vũ Hoàng Hữu Xứng ngưng tuyệt thực.
Thưa Thầy, Thầy có biết quan Tuần Vũ Hoàng Hữu Xứng là ai không? Quan Tuần Vũ Hoàng Hữu Xứng chính là Nội Tổ của hai anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan.
Nội Tổ của Thầy danh giá như vậy đó, trung liệt như vậy đó, thì tại sao hai anh em của Thầy nỡ lòng nào bôi xấu dòng họ mình, làm nhục tổ tiên mình, làm hoen ố tên tuổi quan Tuần Vũ Hoàng Hữu Xứng, để đến nỗi sau Mậu Thân 1968, các vị bô lão của làng Bích Khê vì quá hổ thẹn với hành động sát hại đồng bào Huế do hai anh em Thầy gây ra, họ đã phải buộc miệng nói rằng: “Thói đời, hổ phụ sinh hổ tử, tại sao lại có chuyện nghịch đời hổ phụ sinh cẩu tử”.
Thưa Thầy,
Thầy có biết không, đã bốn mươi hai năm trôi qua, hằng năm mỗi lần Tết đến, khi nhắc đến cuộc tàn sát kinh hoàng do Thầy và em ruột của Thầy là Hoàng Phủ Ngọc Phan gây ra thì mọi người dân Huế không một ai là không kinh tởm, không nguyền rủa Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan. Nói đến tang tóc đau thương của 5327 sinh mạng dân lành vô tội và hơn 1200 người mất tích ở Huế là nói đến các tên Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Thầy có biết không?
Như vậy kể từ tháng 6/66, thầy trò chúng ta ơn đoạn, nghĩa tận. Chúng ta không còn gì để giữ tình thầy trò. Biên giới đã được phân định. Thầy và Nguyễn Đắc Xuân thuộc về bờ Bắc, và tôi thuộc về bờ Nam của dòng sông Bến Hải chia đôi đất nước tại vĩ tuyến 17.
Trong chức vụ phó Trưởng Ty Cảnh Sát Đặc Biệt của Bộ Chỉ Huy CSQG/Thừa Thiên-Huế, trách nhiệm của tôi là phải vô hiệu hóa mọi công tác của đám cán bộ, cơ sở  nội thành Việt Cộng, phải bắt giữ tất cả. Và một trong những mục tiêu quan trọng mà lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt của tôi phải vô hiệu hóa càng sớm càng tốt đó làHoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân.
Tôi đã bố trí lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt để bắt giữ Thầy. Còn nhớ trước khi Thầy và Hoàng Phủ Ngọc Phan thoát lên mật khu, chiều hôm đó Thầy từ nhà tên Chính, cơ sở nội thành ở đầu cầu Phủ Cam trên đường Phan Chu Trinh thuộc Quận III Thị xã Huế, di chuyển sang nhà của Trịnh Công Sơn. Ăn cơm tối với Trịnh Công Sơn xong, thì hai cán bộ nội thành thuộc tổ trí vận của Thành Ủy Huế đến đưa Thầy và Hoàng Phủ Ngọc Phan rời khỏi nhà Trịnh Công Sơn bằng chiếc xe hơi màu trắng của bà Đào Thị Xuân Yến tức bà Tuần Chi chạy lên Chùa Linh Mụ. Rồi từ đó Thầy và Hoàng Phủ Ngọc Phan đi đường bộ qua ngã Long Hồ Ngọc Hồ, vượt nguồn tả sông Hương lên vùng mật khu núi Chuối, tức núi Kim Phụng. Hai cán bộ nội thành đón hai anh em Thầy không ai khác hơn là giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm đóng vai cận vệ, và tài xế là Lê Cảnh Đạm, Tổng Thư Ký trường Đại học Y Khoa Huế.
Tôi là một sĩ quan tác chiến mới vào nghề an ninh tình báo nên chưa đủ bản lãnh và kinh nghiệm của nghề nghiệp, cũng như chưa đủ bản chất lạnh lùng của một sĩ quan tình báo khi thi hành công tác. Vì vậy tôi đã vấp phải một lỗi lầm rất lớn để phải ân hận suốt đời, là giao công tác hệ trọng nầy cho viên phụ tá của tôi, anh Xuân, trưởng ban Hoạt Vụ chỉ huy, còn tôi đứng khá xa, vì tôi không nỡ làm hành động trò trực tiếp bắt thầy. Nếu tôi đích thân chỉ huy lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt vây bắt Thầy tối hôm đó, chắc chắn thầy không tài nào có thể chạy thoát được.
Tại sao? Lý lẽ duy nhất để biện minh cho hành động tắc trách của tôi lúc đó là đạo nghĩa, là giáo dục của phụ thân tôi, là giáo dục của của học đường Miền Nam, của thầy Hoàng Phủ Ngọc Tường, của xã hội Miền Nam Việt Nam: Một chữ nên thầy một ngày nên nghĩa, nên tôi đã không thể vượt qua hàng rào đạo đức lễ giáo. Lúc đó tôi cũng chưa được huấn luyện và dày dạn phong sương để có thể có được hành động và trái tim lạnh lùng của một sĩ quan tình báo. Hành động trò đi bắt thầy là một hành động khó có thể chấp nhận được. Cũng vì lễ giáo đó mà nay tôi phải ân hận suốt đời, đã để xổng một con ác quỷ! Tôi đã không hiểu thấu một lý lẽ quan trọng: Nếu cần phải vô hiệu hóa một người để cứu một trăm người, thì đó là chuyện phải làm.
Không còn gì để nói về tình thầy trò giữa tôi và Thầy. —Liên Thành.
Tại khu vực Đại học Văn Khoa Huế, 1971, Thiếu Tá Liên Thành (ngồi) đang cùng lực lượng cảnh sát sẵn sàng trấn áp một cuộc bạo loạn của sinh viên nằm vùng Đại học Huế trong mục đích chống quân sự học đường, chống chiến tranh, chống Việt Nam Cộng Hòa, và yêu cầu Mỹ rút quân của Tổng hội sinh viên Đại học Huế.
Thư của cựu Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và Thị xã Huế, Thiếu Tá Liên Thành gởi: 
– Hoàng Phủ Ngọc Tường, Cán bộ trí vận thuộc Khu ủy Khu 5 (Miền Trung).
– Tổng thư ký Lực Lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình   
– Chủ tịch Tòa Án Nhân Dân tại trường trung học Gia Hội,  Bãi Dâu, Quận II Thị xã Huế năm Mậu Thân 1968.
– Tội phạm chiến tranh, tội phạm diệt chủng Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Bằng vào một số chứng cớ rõ ràng minh bạch, qua trên một trăm (100) nhân chứng, tôi xác nhận Hoàng Phủ Ngọc Tường là người chủ tọa phiên Tòa Án Nhân Dân của Chính Quyền Cách Mạng Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế, được thiết lập tại trường trung học Gia Hội, Bãi Dâu thuộc Quận II (Tả Ngạn) Thị xã Huế vào Tết Mậu Thân 1968. Y cũng chính là người ra lệnh tử hình 204 người. Đa số là thường dân vô tội.Sau Mậu Thân, tức sau ngày 26 tháng 2 năm 1968, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tái chiếm Huế hoàn toàn. Cộng quân đã tháo chạy. Tình hình an ninh ổn định dần dần. Tôi cho lệnh các toán tình báo, các đơn vị CSĐB tiếp xúc với số thân nhân nạn nhân đã bị Việt Cộng sát hại. Trong đó chúng tôi có mở cuộc điều tra chi tiết vùng trường học Gia Hội. Mục đích là cập nhật thêm tin tức, bằng chứng, xác nhận danh tánh những tên Việt Cộng đã nhúng tay vào các vụ thảm sát đồng bào, để truy bắt và vô hiệu hóa bọn chúng. Những tin tức chúng tôi thu thập được gồm có:
1- Hơn một trăm lời khai từ thân nhân của nạn nhân tại trường trung học Gia Hội đều nói rõ: Khi thân nhân họ bị bắt dẫn đến trường Gia Hội, họ đã đi theo và họ hiện diện trong phiên tòa của Tòa Án Nhân Dân tại đó.
2- Một số nhân chứng xác nhận: Người ngồi xử tội thân nhân họ là ông Giáo sư Hoàng Phủ Ngọc Tường, người mà họ đã biết mặt trong thời gian Phật Giáo Ấn Quang tranh đấu tại Huế vào mùa hè năm 1966.
3- Một số khác tả nhân dạng người ngồi ghế xử tội thân nhân họ có nốt ruồi đen khá lớn ở phía cằm bên phải, nghe đâu ông ta tên Tường là thầy dạy học ở trường Quốc Học trước đây.
4- Đặc biệt là lời khai của một quả phụ, vợ của một Chuẩn úy thuộc Sư đoàn I Bộ Binh:Khi chồng bà bị toán thanh niên của Nguyễn Đắc Xuân xông vào lục soát và bắt chồng bà ta tại nhà, bà đi theo và đem thức ăn quần áo cho chồng. Tại trường Gia Hội, người chồng nói với bà:
Em đừng lo, người ngồi xử trên đó là Thầy dạy cũ của anh, Thầy Tường, dạy anh ở trường Quốc Học.”
5- Trưởng Ban Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Quận II Thị xã Huế, Thiếu Úy Trọng, trong bản báo cáo về Bộ Chỉ Huy Tỉnh sau Tết Mậu Thân cũng đã phúc trình Hoàng Phủ Ngọc Tường là người chủ trì Tòa Án Nhân Dân tại trường Gia Hội trong Tết Mậu Thân 1968 và đã xử tử hình 204 đồng bào.
6- Cuối cùng là lời khai của Thành Ủy Viên Thành Ủy Huế, Trung Tá Điệp Viên Cộng Sản Hoàng Kim Loan, kẻ chỉ huy cuộc tổng nổi dậy vào Tết Mậu Thân 1968 tại Huế. Hoàng Kim Loan bị chúng tôi bắt vào tháng 5/1972. Y đã khai như sau:
“Chính tôi (Hoàng Kim Loan), và hai thành ủy viên khác là Phan Nam, Hoàng Lanh đề cử Hoàng Phủ Ngọc Tường ngồi ghế Chủ Tịch Tòa Án Nhân Dân tại trường Gia Hội, và chúng tôi đều có mặt trong phiên xử đó.”Tôi thấy cũng đã quá đủ những lý lẽ, dữ kiện để có thể kết luận:
1- Hoàng Phủ Ngọc Tường có mặt tại Huế trong suốt thời gian Mậu Thân 1968.
2- Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là Viên Chánh Án Tòa Án Nhân Dân tại trường Gia Hội, vùng Bãi Dâu thuộc Quận II Thị xã Huế trong Tết Mậu Thân 1968.
3- Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là kẻ đã buộc tội và ra lệnh tử hình 204 người, đa số là thường dân vô tội, bằng cách chôn sống họ ngay tại trường Gia Hội vùng Bãi Dâu thuộc Quận II Thị xã Huế trong Tết Mậu Thân 1968.Vụ tàn sát kinh rợn đồng bào Huế trong Tết Mậu Thân 1968 của đảng Cộng sản Việt Nam và nhóm tay sai trong lực lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình(gồm có: Lê Văn Hảo, Thích Đôn Hậu, Đào Thị Xuân Yến, Thích Thiện Siêu, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thị Đoan Trinh, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đóa, Tôn Thất Dương Tiềm, Nguyễn Thiết, Nguyễn Hữu Vấnvà quá nhiều đám tay chân của Thích Trí Quang trong vụ phản loạn năm 1966 tham dự vụ tàn sát này) đã được thế giới biết đến. Sau năm 1975 thì các hãng truyền hình quốc tế đã cố gắng liên lạc để phỏng vấn những tên sát thủ đã bỏ chạy sang bờ Bắc vĩ tuyến 17, trong đó có Hoàng Phủ Ngọc Tường. Năm 1982 hãng truyền hình London đã phỏng vấn y về Mậu Thân. Y trả lời nguyên văn như sau:
Phải giết bọn chúng như là giết những con rắn độc”.Chính miệng hắn năm 1982 trong cuộc phỏng vấn, còn ghi lại đầy đủ hình ảnh âm thanh trên Internet, đã xác nhận rằng hắn có mặt tại trận đánh Mậu Thân, lội trong máu gần ở phố Đông Ba. Thế mà mấy năm gần đây, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại đổi trắng thay đen chối phắc rằng: Y không nhúng tay vào các vụ tàn sát tại Huế, vì suốt thời gian trận đánh xảy ra y đang nấp dưới hầm tại vùng Khe Trái. Trong khi ở Khe Trái, theo ghi nhận của các cơ quan điều tra VNCH, là hoàn toàn không có một bóng cộng quân nào ở vùng Khe Trái này khi trận đánh Mậu Thân diễn ra. Đây chỉ là điểm chúng tập kết quân trước trận đánh mà thôi.
Tôi đã trích một đoạn trong cuốn hồi ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở phần trên để chứng minh rõ ràng rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có mặt tại Huế trong suốt 26 ngày cộng quân tấn công và chiếm Huế, và Hoàng Phủ Ngọc Tường cùng đồng bọn là những tên đao phủ giết quá nhiều đồng bào Huế trong Tết Mậu Thân 1968.
Dù hắn có chối bay chối biến chăng nữa, thì sự thực vẫn là sự thực. Sự che dấu tội lỗi gần đây của chúng đã quá muộn vì chính chúng chứ không ai khác khi “cách mạng” mới thành công đã vênh vang tự đắc nhận công trạng giết người như giết rắn độc của mình. Bây giờ khi thực tế chứng minh Chủ Nghĩa Cộng Sản là một thảm họa cho Việt Nam, bị ngay cả chính nhiều đảng viên Cộng sản phỉ nhổ, thì chúng lo sợ bị lịch sử phanh phui, bị đưa ra tòa án quốc tế nên chối bay chối biến. Viết cuốn sách Huế Thảm Sát Mậu Thân 68 này chúng tôi chỉ trưng ra những bằng cớ để quý độc giả nhận định mà thôi. Việc xét đoán đã có đấng thiêng liêng quyết định và những oan hồn của dân lành vô tội chắc chắn sẽ không để hắn yên.

Giờ đây với bệnh tật phải ngồi xe lăn, và cõi chết đã gần kề, Hoàng Phủ Ngọc Tường không thể chối tội với lương tâm của mình, cũng không thể quên được những ngày bi thảm của cuộc tàn sát ghê rợn, đẫm máu do chính y gây ra cho đồng bào Huế trong Tết Mậu Thân 1968.
            Tên  sát nhân Hoàng Phủ Ngọc Tường:
                           “Nợ người một khối u sầu
                  Tìm người tôi trả ngày sau luân hồi…”
Trong phần đời ngắn ngủi còn lại, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sống những chuỗi ngày sợ hãi, sợ hồn ma bóng quế, sợ oan hồn ẩn hiện của những kẻ đã bị Hoàng Phủ Ngọc Tường thảm sát 42 năm về trước, bởi thế cho nên hắn đã viết như sau:
    “Những chiều Bến Ngự dâng mưa
      Chừng như ai đó mơ hồ gọi tôi
      Tôi ra mở cửa đón người
     Chỉ nghe tiếng gió thổi ngoài hành lang”.
            Hoặc là:
    “Nợ người một khối u sầu
      Tìm người tôi trả ngày sau luân hồi…”
               (Thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Hoàng Phủ Ngọc Tường!
Không có người sống để ông “ra mở cửa đón người” mà chỉ là những người chết, là oan hồn của những dân lành vô tội đã bị ông sát hại gõ cửa linh hồn ông. Kiếp luân hồi tôi nghĩ cũng không thể có đối với ông được vì nghiệp chướng mà ông gây ra đã quá nặng. Ông phải bị đày cả ngàn năm hơn dưới 18 tầng âm ti địa ngục, đừng hy vọng gì để: “Tìm người tôi trả ngày sau luân hồi.” Liên Thành
(Trích trong sách Huế – Thảm Sát Mậu Thân)
oOo
Phỏng vấn nhà thơ Hoàng Xuân Sơn
 – Coi đầy đủ vào Web bên dưới
……………
11- Sự hình thành của Quán Văn (trích: Phóng Bút Cũng Cần Có Nhau), là một thiên phóng bút dưới dạng hồi tưởng về thời điểm sinh họat văn nghệ thập niên 60/70 ở miền Nam Việt Nam nói chung, trong đó có Quán Văn.( tác giả giới thiệu). Trong phóng sự này ông đã viết rất đẹp về Trịnh Công Sơn, và khẳng định sự kết hợp giữa Khánh Ly và TCS, là hiện tượng tạo dấu ấn rõ rệt về các sinh hoạt văn nghệ thời thượng. Ông nghĩ thế nào, khi đọc nhiều bài viết với những dẫn chứng kết án TCS là cộng sản?

Mở lại hồ sơ TCS là trở lại với sự phức tạp tưởng chừng không dứt: bởi vì mọi tranh cãi về vị thế chính trị của ông ấy đối với đất nước Việt Nam cho tới giờ phút này dường như vẫn chưa ngả ngũ TCS là quốc gia hay cộng sản? Chung quanh vấn đề này đã xuất hiện nhiều bài viết từ nhiều phía: phía binh vực TCS(rất hiếm hoi), phía quy kết TCS là cộng sản gộc hay “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”(rất đông đảo), phía những người thương và hận TCS(vẫn yêu nhạc Trịnh nhưng hận ông về sự lựa chọn phản bội); và cánh hùa theo đánh hôi TCS để tự đánh bóng mình(cánh này cũng đông đảo không kém) .

Khi tôi viết phóng bút Cũng Cần Có Nhau và viết “tốt đẹp” cho TCS và Khánh Ly là tôi chỉ viết lên một phần nhỏ sự thật lúc bấy giờ - tôi nhấn mạnh THỜI ĐIỂM BẤY GIỜ - Đối với giới trẻ Sài gòn nói riêng và VN nói chung TCS và Khánh Ly quả là thần tượng qua sinh hoạt văn nghệ thanh niên sinh viên cuối thập niên 60. Họ say mê nhạc Trịnh (mà người diễn đạt gần gũi, gây nhiều ấn tượng nhất không ai ngoài Khánh Ly) như một cái “mode” thời thượng, chán ghét chiến tranh, chiêm nghiệm thân phận con người; sự bi đát, huỷ hoại và sau cùng là cái chết của đạn bom mang lại . . . Theo nhận định(rất chủ quan) của tôi, với tư cách một người bạn đã từng sinh hoạt chung với nhau nhiều năm : THỜI ĐIỂM BẤY GIỜ (lại nhấn mạnh) TCS chưa hề là cộng sản! Những ca khúc của anh, cụ thể là Ca Khúc Da Vàng, chỉ mang tính chất phản chiến, cho dù có quy kết những ca khúc này làm lợi cho địch, cũng không thể chối bỏ khuynh hướng nhân bản chống lại cuộc chiến phi nhân tương tàn. Nếu TCS là một cán bộ CS gộc, có bề dày tuổi đảng, thì không thể viết: “Hai mươi năm nội chiến từng ngày. . .”(Gia Tài Của Mẹ) . Đối với người cộng sản, cuộc chiến xâm lăng miền nam VN vẫn được họ mệnh danh là “cuộc chiến đấu thần thánh của toàn dân chống Mỹ cứu nước” . “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”thì diễn từ “nội chiến” là phản động là cái chắc. Hoặc những lời ca khác của TCS như “ một ngày mùa đông trên con đường mòn, một chiếc xe tang, trái mìn nổ chậm, người chết hai lần, thịt da nát tan . . .” . Mìn nổ chậm do phía nào gài thì ai cũng biết. Vâng! Có những cái chết phi lý như thế. Như người ta vẫn nhân danh bạo lực để sát hại đồng loại mà có lần TCS đã lên án và binh vực cho bạn Ngô Vương Toại bị ngã gục vì viên đạn thù phía bên kia bằng ca khúc Nhân Danh Ai “nhân danh ai anh đến đây bắn vào người ...”( trích đoạn sự việc này tôi đã gởi đăng ở mạng www.damau.org , xin mời đọc nếu cần kiểm chứng) . Trừ trường hợp(giả thiết) TCS là một điệp viên CS cao cấp, che dấu hết mọi căn cước của mình để ăn dầm ở dề trong lòng địch làm công tác ru ngủ đối phương tạo thành tích lớn cho “cách mạng” . Tôi không tin như thế, vì quả đúng vậy thì TCS về sau sẽ trở thành một anh hùng dân tộc của phía bên kia(?!). Sau 75 TCS không hề được công kênh. Và chỉ là một con chốt trên bàn cờ thí. Dù sao, tôi vẫn trân quý TCS là một thiên tài âm nhạc đích thực.Và qua giao tiếp, tôi nhận thấy anh là người có học, suy nghĩ sâu sắc,tính tình bặt thiệp, cách đối xử với bạn bè và người thân rất bình thường, thân thiện. Tuy nhiên, một điểm cần nhấn mạnh là TCS rất nhút nhát, hay sợ hãi, an phận và nể vì. Đó cũng là những đức tính đưa đến sự chọn lựa sau cùng của anh :hợp tác với chế độ cộng sản. Sự lựa chọn này có thể manh nha từ những tháng năm chịu áp lực ngầm của đám bằng hữu nhảy núi vô bưng hoạt động cho CS. Cụ thể là từ Ca Khúc Da Vàng, lúc TCS sáng tác loạt ca khúc “đấu tranh”Kinh Việt Nam và Ta Phải Thấy Mặt Trời, hơi hướm lời ca từ Vàng đã biến thành Da Cam [ “ta sẽ chiếm trăm công trường, ta xây nên nghìn phố hòa bình . . .”hoặc “... ta đi trong cách mạng tự hào ...”- “ chính chúng ta phải nói hòa bình, khi đất này địa ngục dựng lên, chính chúng ta dành lấy mọi quyền, đứng lên đòi thống nhất quê hương” v.v. và v.v.]. Sau này, khi gặp lại TCS một lần duy nhất ở Gia Nã Đại, một vài bạn cũ, và chính tôi cũng nhận thấy anh có phần biến chất: một người đã từng được hưởng ơn mưa móc của chế độ mới qua cách suy nghĩ, diễn đạt và ứng xử. Như thế, từ thời điểm này, bảo TCS là người của CS cũng không ngoa.

12-Ông có khẳng định những chi tiết trong SHTCQV là đúng 100%, sau hơn 35 năm, như trí nhớ của người phóng bút không? Có phải đây mới là tác phẩm để đời của Hoàng Xuân Sơn?

Khi tôi bắt đầu viết phóng bút Cũng Cần Có Nhau, tôi đã cẩn thận ghi lại như thế này: “ . . . Tôi không có ý định viết hồi ký. Viết hồi ký đòi hỏi phải có một đầu óc khá minh mẫn để ghi lại sự kiện rõ ràng, minh bạch như đen với trắng. Ví dụ như ngày/tháng, địa điểm v.v; thời gian, không gian cần có sự chính xác. Hỡi ơi! Trí não tôi giờ này đã mụ mị mất rồi! Hơn thế nữa, trong các thể loại văn chương, cầm bút viết một bài văn cho ra hồn, với tôi thật là vạn nan. Tôi là một kẻ làm thơ lưng chừng ở sự lười biếng. Lâu lâu có cảm hứng rị mọ một vài câu vần-vè-vật-vạ. Bởi khó khăn thế nên tôi không hề có ý định viết hồi ký cho đến khi. . .(?) . . . đến khi dăm ba bằng hữu ngồi tán dóc chuyện đời xửa đời xưa; nghe tôi có dính líu ít nhiều đến sinh hoạt thời sinh viên trai trẻ, thời của Quán Văn có đông đảo anh chị em văn nghệ v.v., các bạn đã khuyến dụ tôi ghi lại quãng đời này qua những sự kiện của một thời đại đáng ghi nhớ . Cám ơn các bạn văn Hoàng Chiều Nhân, Trương Vũ, Nguyễn Xuân Hoàng, Trần Doãn Nho, Triều Hoa Đại, Cao Vị Khanh. . . đã chủ động “khích tuồng” . Và gần đây nhất, thi sĩ Nguyễn Xuân Thiệp, ông chủ Phố Văn, trong một đêm đối ẩm hai chàng ba chai rượu đỏ (đêm tiền đại hội Văn Hóa Phẩm Dallas Fortworth, tháng 11/2005) đã cặp kè bên hông kẻ hèn này thúc viết cho bằng được. Ừ, thì viết. Cái này không gọi là hồi ký thôi thì tạm gọi là “phóng bút” đi. . .”

Chị thấy không ? Như thế thì làm sao khẳng định đúng 100% được . Tuy nhiên qua thăm dò một số thân hữu đã từng sinh hoạt chung thời kỳ Quán Văn, những điều ghi lại (sự kiện chính)cũng đạt được mức độ chính xác khoảng 90% . Như thế là cũng có điểm tốt rồi phải không ? Còn gọi là tác phẩm để đời thì không dám mô . Tất cả mọi thao t ác văn nghệ của HXS đều ở trên đường chập chững, vẫn còn nơi cõi tạm mà thôi !

 13- Nhà thơ Hoàng Xuân Sơn có lời nào với độc giả của ông?

Trong tương lai, khi phóng bút Cũng Cần Có Nhau ra đời, chỉ mong nhận được sự ủng hộ nhiệt tình và góp ý xây dựng của bạn đ ọc . Cám ơn nhà văn Lê Quỳnh Mai đã cất công sửa soạn buổi trò chuyện này . Cám ơn quý độc giả đã theo dõi . Xin chúc sức khỏe mọi người . Với lời chào tạm biệt .

 Cám ơn nhà thơ Hoàng Xuân Sơn đã nhận lời mời phỏng vấn của Lê Quỳnh Mai

LÊ QUỲNH MAI thực hiện
Tháng 8, 2010
Mạng xã hội nói gì?
Facebook Thiêm Võ bình luận: "Dù ông Tường có "thống thiết" cho nạn nhân không thì không có gì để tin! Nhưng nếu ông biết vậy thì ngay bây giờ cũng chưa muộn, hãy viết thư "thỉnh cầu" các đồng chí của ông đừng ăn mừng "chiến thắng Mậu Thân" nữa! Việc ấy mới xảy ra khắp nước và ngay tại thành Hồ nơi ông ở. Làm ngay đi. Tại sao ông không làm hay ông vẫn cho việc kỷ niệm là đúng đắn? Ăn mừng thảm sát dân lành ư? Ông không thấy đó là nỗi xót xa cho dân Huế ... của ông (sic!) ư?"
"Mặt khác, ngay lúc này, khi ông muốn chứng tỏ mình là người thành thật, thì hãy bỏ đi từ "nổi dậy"! Nó láo và khốn nạn lắm! Hơn ai hết, các ông biết không hề có sự nổi dậy nào của dân chúng toàn cõi Miền Nam thì đừng láo nữa, đừng lừa bịp con cháu nữa! Những kẻ nằm vùng không phải là dân chúng nổi dậy."
"Chắc ông nhớ các cuộc tản cư suốt chiều dài cuộc chiến, đại lộ kinh hoàng 1972, di tản năm 1975 từ Huế,Đà Nẵng, Tây Nguyên...và hơn nửa triệu người chết trên biển đó chứ? Cụ thể hơn, con cái, bạn bè thân thiết của các ông cũng đã và đang di tản đó! Họ không nổi dậy mà họ chạy trốn."
Nhà báo tự do Nguyễn Trung Bảo viết: "Về việc bây giờ ông Tường mới lên tiếng để tự minh oan cho mình, thật lòng tôi nghĩ nếu ông không thể trung thực được với lịch sử để thế hệ sau như chúng tôi được đọc - được học, thà rằng ông im lặng luôn như lâu nay, có khi tôi vẫn nghĩ về ông như một người cầm bút. Ông lên tiếng vì nỗi oan ức của ông, nỗi oan bị người ta nói không đúng (xuất phát từ chính việc làm của ông trong quá khứ), nhưng ông vẫn không nói một lời nào đối với nỗi oan của hàng ngàn mạng người bị dập vùi trong cái tết năm ấy. Ông chỉ dám nhắc tới một chút nhưng vẫn cố lôi "tội ác của Mỹ" vào để che chắn cho chính ông và đồng đội của ông."
"Ông có thể bị oan về việc có mặt ở Huế trong sự kiện năm đó, nhưng với sự kiện Mậu Thân ông không phải là kẻ vô can. Với những người bị chết đầy oan khuất ông vẫn nợ họ một câu trả lời nếu ông tự coi mình là người cầm bút. Khi nào ông chưa nói được hết những sự thật khủng khiếp của cái sự kiện mà ông đã góp phần tích cực cả gián tiếp và trực tiếp thì mãi mãi tên ông vẫn bị nhắc tới với sự hằn học mỗi khi người ta nói về Mậu Thân."
11 tháng 2 năm 2018
http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-43021600

Hoàng Phủ Ngọc Tường sắp chết vẫn nói dối
Trần Văn Tích _February 13, 2018 
Hoàng Phủ Ngọc Tường trong phim “Việt Nam một thiên lịch sử truyền hình” đoạn nói về vụ “máy bay Mỹ đã thảm sát bệnh viện nhỏ ở Đông Ba.” (Hình: Chụp từ Youtube)
Hai anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường và Hoàng Phủ Ngọc Phan vốn bà con gần với tôi vì chúng tôi cùng có chung một ông cố, đó là Tuần Vũ Hoàng Hữu Xứng. Năm 1882, khi Henri Rivière đánh thành Hà Nội thì Tổng Đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết còn Tuần Vũ Hoàng Hữu Xứng thì tuyệt thực.
Tuần Vũ Hoàng Hữu Xứng là cố nội của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan còn tôi thì gọi ông là cố ngoại. Thân phụ cặp bài trùng “Việt Cộng ác ôn” vì là con quan lớn nên được tập ấm, tôi gọi là cậu Ấm Hoàng Hữu Dực. Thời Pháp thuộc, cậu Ấm Dực làm xếp ga An Cựu, Huế.Bài viết hôm nay tập trung vào một chi tiết duy nhất gạn lọc ra từ đoạn văn sau đây, mới được phổ biến rộng rãi trên mạng lưới vào ngày đầu Tháng Hai này.
Trích: “Để chứng tỏ mình là người trong cuộc, tôi đã dùng ngôi thứ nhất – ‘tôi’, ‘chúng tôi’ khi kể một vài chuyện ở Huế Mậu Thân 68. Đó là những chuyện anh em tham gia chiến dịch kể lại cho tôi, tôi đã vơ vào làm như là chuyện do tôi chứng kiến. Đặc biệt, khi kể chuyện máy bay Mỹ đã thảm sát bệnh viện nhỏ ở Đông Ba chết 200 người, tôi đã nói: ‘Tôi đã đi trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên thì toàn là máu… Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra’. Chi tiết đó không sai, sai ở chỗ người chứng kiến chi tiết đó không phải là tôi, mà là tôi nghe những người bạn kể lại. Ở đây tôi là kẻ mạo nhận, một việc rất đáng xấu hổ, từ bé đến giờ chưa bao giờ xảy ra đối với tôi.” Hết trích. (Tôi tôn trọng cách trình bày về hình thức của tài liệu, nhất là những dòng chữ tô đậm trong nguyên văn.)
Theo các chi tiết phổ biến trên Internet thì Hoàng Phủ Ngọc Tường, 81 tuổi, hiện lâm bệnh nặng, đã đọc cho con gái chép lại lời y thành bài viết xuất hiện dưới đầu đề “Lời cuối cho câu chuyện quá buồn.” Như đã báo trước, cá nhân tôi không đếm xỉa đến những lời thanh minh trần tình của tên Việt Cộng sắp chết mà chỉ chú trọng vào lời kể của y, theo đó ở Đông Ba có một bệnh viện nhỏ bị máy bay Mỹ thả bom giết chết hai trăm người. Người viết đặt tiền đề như vậy làm giả thuyết – nghĩa là nêu vấn đề ra theo tinh thần khoa học để giải thích một hiện tượng ngoài đời hay trong tự nhiên nào đó (trong trường hợp này là vụ gọi là Mỹ thả bom giết hai trăm người ở một bệnh viện toạ lạc tại Đông Ba, Huế) – và tạm chấp nhận sự kiện liên hệ tuy chưa thể kiểm nghiệm, chứng minh hầu căn cứ vào đó mà phân tích, suy luận.
***
Những ai ở Huế lâu ngày đều biết đến các cơ sở điều trị quân dân y: Bệnh viện Trung Ương Huế trên đường Lê Lợi cạnh dòng Hương Giang, Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương trong Mang Cá, nhà hộ sinh ở Tây Lộc. Các khu vực Đông Ba, Gia Hội là những vùng buôn bán sầm uất, có nhiều phố xá nhộn nhịp, có nhiều nhà cửa dân chúng đông đúc. Không có khoảnh đất trống nào đủ rộng lớn để xây một bệnh xá hay bệnh viện nhỏ. Nếu Mỹ thả bom trúng bệnh viện mà chết ngay một lúc đến hai trăm người thì cơ sở khám bệnh và nhận người ốm đau nằm điều trị phải được trang bị ít nhất cũng năm mươi giường bệnh. Thế nhưng không người dân Huế nào biết đến hay nhận được công việc phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất định về y khoa phòng ngừa, y khoa chẩn đoán, y khoa điều trị dành cho số đông, có tổ chức thành nề nếp và có tiếng vang trong vùng; chỉ có bọn Vẹm từ trên rừng về là sưng sưng bảo rằng có một cơ sở y khoa như vậy! Vạn nhất nếu bom “đế quốc” vô tình đánh sập bệnh viện, giết một loạt hai trăm người thì đám truyền thông Cộng Sản hay thân Cộng tại sao đều câm như hến và mù tịt cả lũ? Chúng luôn luôn theo dõi rất kỹ các tội ác do “đế quốc Mỹ, kẻ thù của nhân dân ta và nhân dân thế giới” gây ra cơ mà, đời nào chúng chịu ngậm câm nhắm mắt trước một vụ thảm sát lớn lao như vậy?
Chúng chả rêu rao ầm ỹ vụ được chúng tuyên truyền là “giặc lái Mỹ” ném bom xuống khu Khâm Thiên, Hà Nội gây tổn hại cho bệnh viện cận kề là gì? Chúng thổi phồng vụ chuồng cọp ở các trại giam Việt Cộng tại Côn Đảo, Phú Quốc một cách vô liêm sỉ. Chúng láo khoét bảo phe quốc gia đã đầu độc hàng loạt tù hàng binh; sau ngày 30 Tháng Tư, lại cũng chính chúng trơ tráo sượng sùng công nhận là không hề có chuyện đó. Cái lối mô tả Mỹ ném bom giết hai trăm người ở bệnh viện Đông Ba cũng cùng bài bản với lời tố cáo của nhà sư Thích Nhất Hạnh theo đó Mỹ thả bom giết ba trăm ngàn dân Bến Tre trong khi thực ra dân số toàn tỉnh Bến Tre chỉ có chưa đến một trăm ngàn người. Vả lại miệng lưỡi điêu ngoa của Việt Cộng chuyên môn đưa ra những con số nạn nhân phóng đại một cách nham hiểm và tròn trịa một cách ngu ngốc. Lê Duẩn đã từng tuyên bố là “Mỹ Diệm” lê máy chém đi khắp nơi chặt đầu năm trăm đảng viên Cộng Sản. Toàn là những con số tròn trặn tròn vo. Năm trăm của Lê Duẩn, hai trăm của Hoàng Phủ Ngọc Tường, ba trăm ngàn của Thích Nhất Hạnh!
Tuy nhiên Hoàng Phủ Ngọc Tường chỉ biết ăn gian nói dối mà ăn gian nói dối một cách ngu xuẩn, u mê. Thoạt tiên cặp bài trùng đội lốt quỷ sứ họ Hoàng Phủ trút tội lên đầu Mỹ, chúng bù lu bù loa bảo pháo và bom của Mỹ giết đồng bào Huế nhưng đến khi đồng bào Huế và chứng nhân nước ngoài quan sát thấy các thi hài khai quật từ những hố chôn tập thể chỉ mang những vết thương bằng vũ khí đạn dược của bộ binh, thậm chí bị đánh vỡ sọ gãy tay, bị trói cánh khủy nằm chồng lên nhau, chứ không hề có mảnh bom hay viên đạn nào của Mỹ trong thi thể thì chúng thấy mình bị hố nặng. Thế nhưng biết bị hố thì trễ quá rồi, mặt nạ Satan Mephisto đã hiện nguyên hình quá rõ. Ăn gian mà ngu, nói dối mà đần, phải chăng vì vậy mà cả Hoàng Phủ Ngọc Tường lẫn Hoàng Phủ Ngọc Phan đều coi như hoàn toàn thất sủng sau ngày 30 Tháng Tư mặc dầu cả hai tên đều đã mang trên hình hài một thành án, một thiết án muôn đời không cởi bỏ được.
***
Mỗi con người đều là một thành viên của lịch sử. Quyết đoán về một nhân vật lịch sử là việc không phải dễ và càng lên tiếng mạnh mẽ càng hay rơi vào sai lầm. Mục đích nên nhằm khi nhìn lại quá khứ lịch sử là tìm hiểu một cách tương đối vô tư để nhận định cho chính xác, may ra sẽ rút được phần nào kinh nghiệm cho cuộc sống vốn rất dễ bị xáo trộn khuấy động do những sự bồng bột nhất thời có thể che khuất lương tri. Dẫu sao đi nữa thì với kẻ thành tâm tìm hiểu việc nước, thái độ bình tĩnh nhận xét, tinh thần phân tích khoa học là những điều kiện thuận lợi để tới gần sự thật.
Trước khi chết, Hoàng Phủ Ngọc Tường muốn gột rửa phần nào tội ác tày trời đối với đồng bào nhất là đồng bào Huế. Huế là nơi y chào đời, lớn lên, ăn học và giảng dạy. Cộng Sản mà đứng trước ngưỡng cửa tử sinh thì cũng phải thấy là việc trọng đại. Biện pháp duy nhất để chạy tội chỉ có thể là đổ tội cho tha nhân, và dễ dàng hơn nữa, cho ngoại nhân. Bom Mỹ đã giết hai trăm đồng bào vô tội ở Đông Ba, Hoàng Phủ Ngọc Tường quả quyết một cách rất đần độn như vậy. Nhưng dữ kiện này, vẫn theo chính mồm miệng điêu ngoa của y, vốn xuất phát từ một tên Việt Cộng khác; y chỉ nhập nhằng, lưu manh quơ vào cho mình. Làm sao y dám nhận xằng như vậy một khi chẳng có bằng chứng cụ thể, khách quan nào hết cả?
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gian mà lại ngu. Sống thì gian và ngu, gần chết lại càng gian và ngu hơn.
Cuộc thảm sát tại khe Đá Mài
Hai Lm. Nguyễn Hữu Giải và Phan Văn Lợi kể lại trong tháng kính các đẳng linh hồn, 11-2007. 
Vài lời mở đầu
Biến cố tết Mậu Thân sắp được hầu hết toàn thể dân tộc VN, đặc biệt nhân dân miền Nam, kỷ niệm lần thứ 40 với trái tim vẫn còn rỉ máu, vì hàng trăm ngàn nạn nhân của cuộc thảm sát này –mãi cho tới hôm nay- chưa bao giờ nghe được một lời tạ lỗi và thấy được một cử chỉ sám hối từ phía các tay đồ tể là đảng CSVN, đồng bào ruột thịt của họ. Chúng tôi nói là hàng trăm ngàn người, vì ngoài con số 14.300 nạn nhân vô tội gồm tu sĩ, công chức, giáo sư, giáo viên, sinh viên, học sinh, dân thường ở miền Nam (riêng Huế chiếm gần một nửa), còn phải kể đến 100.000 bộ đội miền Bắc (con số do chính CS đưa ra) đã bị nướng vào cuộc tàn sát dân tộc này, cuộc tàn sát man rợ nhất lịch sử đất nước mà người chủ xướng là Hồ Chí Minh và các lãnh đạo cao cấp trong đảng CS thời đó.

Chúng tôi viết lên bài này như nén hương lòng tưởng nhớ các ân sư, thân nhân, bằng hữu, đồng nghiệp của chúng tôi đã bị CS tàn sát trong biến cố ấy như 3 linh mục người Huế là Hoàng Ngọc Bang, Lê Văn Hộ, Nguyễn Phúc Bửu Đồng, ba linh mục người Pháp là Guy, Cressonnier và..., 3 tu sĩ dòng Thánh Tâm là Héc-man, Bá Long, Mai Thịnh, ba chủng sinh là Nguyễn Văn Thứ, Phạm Văn Vụ và Nguyễn Lương, hai sư huynh dòng La San là Agribert và Sylvestre cùng nhiều người khác… Chúng tôi cũng viết lên bài này như lời kêu gọi đảng và nhà cầm quyền CSVN phải biết thừa nhận sự thật, lãnh nhận trách nhiệm, công nhận tội ác tầy trời mà chính họ đã gây ra cho dân tộc VN trong những ngày xuân năm 1968, phải chấm dứt ngay việc trình bày biến cố Mậu Thân như một “chiến thắng lừng lẫy”, phải phục hồi danh dự cho các oan hồn bằng cách chính thức tạ tội và để tự do cho bất cứ cá nhân hay tập thể nào tưởng nhớ các nạn nhân này, phải tôn tạo ít nhất ngôi mộ tập thể chôn cất di hài của họ tại núi Ba Tầng (núi Bân), phía Nam thành phố Huế. Ngôi mộ này lưu giữ hơn 400 bộ hài cốt chủ yếu bốc từ Khe Đá Mài nhưng đã bị chính CS phá đổ trụ bia và để cho hoang phế suốt 32 năm trời.
Trong toàn bộ biến cố Tết Mậu Thân, có lẽ những gì xảy ra tại Huế là đau thương và đánh động hơn cả. Nhưng trong những gì xảy ra tại Huế, thì có lẽ cuộc thảm sát tại Khe Đá Mài là rùng rợn, dã man và thê thảm nhất. Tiếc thay, theo sự am hiểu của chúng tôi, hình như người ta chỉ biết đến kết cục của nó là hàng trăm bộ hài cốt dồn lại một đống dưới khe sau khi thịt thối rữa bị nước cuốn đi lâu ngày, từ đó suy diễn ra sự việc hơn là biết rõ diễn tiến của toàn bộ sự việc kể từ lúc các nạn nhân bắt đầu bị dẫn đi đến chỗ hành quyết. Lý do là vì chỉ có hai con người duy nhất trong đoàn tử tội đã chạy thoát được trước khi thảm kịch xảy đến, họ nắm được một ít chi tiết nhưng lại chẳng biết rõ địa điểm, do vụ việc xảy ra giữa đêm khuya trong rừng già; họ lại còn quá trẻ rồi sau đó đăng lính, mất hút vào cơn bão chiến tranh, khiến mãi tới ngày 19-09-1969, tức gần hai năm sau, nhờ khai thác tù binh Việt cộng, chính phủ VNCH mới biết đó là Khe Đá mài trong vùng núi Đình Môn, Kim Ngọc, thuộc quận Nam Hòa, tỉnh Thừa Thiên (xã Dương Hòa, huyện Hương Thủy ngày nay) và mới tiến hành việc tìm kiếm hài cốt các nạn nhân xấu số. Thời gian sau, một trong hai người đã chết trận, đem theo bí mật xuống đáy mồ. Chúng tôi may mắn gặp được chứng nhân duy nhất còn lại, nay gần lục tuần. Ông đã tường thuật mọi việc cho chúng tôi khá tỉ mỉ. Nhưng vì lý do an ninh của đương sự, chúng tôi viết theo dạng tự thuật để khỏi nêu tên ông. Chúng tôi cũng xin phép bỏ đi nhiều chi tiết có thể giúp CS lần hồi dấu vết của ông để báo thù.

Lm Phêrô Nguyễn Hữu Giải
Lm Phêrô Phan Văn Lợi

o0o

Hồi ấy tôi mới 17 tuổi, đang là học sinh trung học đệ nhị cấp. Vì tình hình bất an, gia đình tôi đã từ quê chạy về thành phố, cư ngụ tại giáo xứ Phủ Cam, thôn Phước Quả, xã Thủy Phước, tỉnh Thừa Thiên (nay gọi là phường Phước Vĩnh, thành phố Huế) từ mấy năm trước.

Sáng sớm mồng một tết Mậu Thân, tôi cùng gia đình đi thăm bà con thân thuộc và du xuân với các bạn đồng trang lứa, trong một khung cảnh tạm an bình, vắng tiếng súng, nhờ cuộc hưu chiến mà hai miền Nam Bắc đã cam kết tuân giữ.

Bỗng nhiên, khuya mồng một rạng mồng hai tết, nhiều tiếng đại bác và súng lớn súng nhỏ vang rền khắp xứ đạo của chúng tôi. Sáng hôm sau, tôi nghe nói Việt Cộng đang tấn công vào toàn bộ thành phố Huế và đã chiếm nhiều nơi rồi. Hoảng hốt, cả gia đình tôi cũng như rất nhiều giáo dân chạy đến nhà thờ (lúc ấy mới hoàn thành phần cung thánh và hai cánh tả hữu) để ẩn trú, vì đó là nơi an toàn về mặt thể lý (xây vững chắc, tường vách dày, trần xi măng rất cao) cũng như về mặt tâm lý (có thể trông cậy vào ơn phù hộ của Chúa và đông đảo người bên nhau thì bớt hãi sợ…). Tôi thấy đủ hạng: nữ nam già trẻ, linh mục tu sĩ, ngồi chen chúc nhau cả mấy ngàn người (giáo xứ Phủ Cam lúc đó lên tới 10.000 giáo dân). Đang khi ấy, ở bên ngoài, lực lượng địa phương quân, nhân dân tự vệ cùng các quân nhân chính quy về nghỉ phép hợp đồng tác chiến, chống giữ không cho Cộng quân tiến vào giáo xứ từ hướng An Cựu, Bến Ngự, Nam Giao, Ngự Bình... Cuộc chiến đấu xem ra rất ác liệt!

Thế nhưng, đến chiều mồng 6 Tết, do lực lượng quá nhỏ, lại không có tiếp viện (vì mặt trận lan khắp cả thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên), các chiến sĩ đang bảo vệ giáo xứ đành phải rút lui, bỏ chạy. Thế là VC tràn vào! Khuya hôm đó, lúc 1g sáng, chúng mang AK và đèn đuốc xông vào nhà thờ Phủ Cam để gọi là “bắt đầu hàng” và lục soát mọi ngõ ngách. Sau này tôi mới biết chúng có ý lùng bắt cha xứ mà chúng nghi là người chỉ huy cuộc kháng cự, lùng bắt tất cả những ai mà chúng nghĩ đã chống cự lại chúng trong 5 ngày qua, cùng mọi cán bộ viên chức chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, như xảy ra tại nhiều nơi khác trong thành phố Huế lúc ấy.

Thấy chúng vừa xuất hiện, tôi liền lợi dụng bóng tối, nhanh chân chạy đến cầu thang sắt phía cánh trái nhà thờ (gần mộ Đức Cố Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền hiện nay), leo lên trần xi măng, sát mái ngói. Từ trên đó, qua mấy lỗ trổ sẵn để gắn đèn cao áp (nhưng chưa gắn), tôi mục kích khá rõ sự việc diễn ra bên dưới. Tôi thấy lố nhố VC địa phương (du kích nằm vùng) lẫn bộ đội chính quy miền Bắc. Chúng lật mặt từng người, chỉ chỏ bên này bên kia. Một câu nói được lặp đi lặp lại:

- Đồng bào yên tâm! Cách mạng đến là để giải phóng! Các mẹ, các chị, các em có thể ra về. Còn các anh được mời đi học tập, chỉ 3 ngày thôi! Không sao đâu!!!

Thế là mọi tráng niên và thanh niên từ 15 đến 50 tuổi đều bị lôi đứng dậy và dẫn đi, dù là học sinh, thường dân hay công chức…. Tiếng kêu khóc thảm thiết vang động cả nhà thờ. Con khóc cha, vợ khóc chồng, cha mẹ khóc con. Ai nấy linh cảm chuyến đi “học tập” này sẽ chẳng có ngày đoàn tụ. Sau này tôi biết thêm là linh mục quản xứ chúng tôi, cha Nguyễn Phùng Tuệ, nhờ ngồi giữa đám nữ tu dòng Mến Thánh Giá với lúp đội trên đầu, nên may mắn chẳng bị VC nhận diện. Bằng không thì bây giờ ngài đã xanh cỏ. VC ở lại trong nhà thờ suốt đêm hôm đó vài tên, còn những tên khác đi lùng khắp giáo xứ để bắt thêm một số người nữa, cũng từ 15 đến 50, thành thử có nhiều thanh niên hay học sinh gặp nạn

Sáng hôm sau, lúc 8 giờ, bỗng có hai tên VC theo thang sắt trèo lên trần và khám phá ra tôi. Một đứa tên Hồ Sự, du kích gốc Long Hồ, vừa được đồng bọn giải thoát khỏi nhà lao Thừa Phủ (là nhà lao nằm giữa lòng thành phố Huế, ngay sau lưng tòa hành chánh tỉnh). Tên kia là Đỗ Vinh, sinh viên, người gốc làng Sịa. Sau khi lôi tôi xuống, chúng hỏi tôi tại sao lại trèo lên núp (nấp). Tôi trả lời là vì nghe con nít khóc ồn ào, chịu không nổi, phải trèo lên đấy để nghỉ.

Chúng dẫn một mình tôi -lúc ấy chẳng còn hồn vía gì nữa- đi xuống dốc nhà thờ, nhưng đến chắn xe lửa thì quẹo trái, men theo đường xe lửa tới chắn Bến Ngự. Từ đây, chúng dẫn tôi lên chùa Từ Đàm là nơi VC đang đặt bản doanh. Chúng rất đông đảo, vừa sắc phục vừa thường phục, vừa bộ đội miền Bắc vừa du kích nằm vùng miền Nam. Vào trong khuôn viên chùa, tôi nhận thấy ngôi nhà tăng 5 gian thì 4 gian đã đầy người bị bắt, đa số là giáo dân giáo xứ Phủ Cam của tôi. Gian thứ 5 (đối diện với cây bồ đề) còn khá trống, để nhốt những người bị bắt trong ngày mồng 7 Tết. Tôi cũng trông thấy ông Tin, chủ hiệu ảnh Mỹ Vân, người rất đẹp trai, đang bị trói nơi cây mít. Một tên VC nói:

- Thằng ni trắng trẻo chắc là cảnh sát, bắn quách nó đi cho rồi!

 May thay, có một người trong nhóm bị bắt đã vội lên tiếng:

- Tội quá mấy anh ơi, đây là ông Tin chụp ảnh tại Bến Ngự, cảnh sát mô mà cảnh sát!

Nhờ thế ông Tin thoát nạn, được cho về. Tiếp đó, VC đưa cho tôi một tờ giấy để làm bản lý lịch. Chúng bảo phải khai rõ tên cha, tên mẹ, tên mình, nguyên quán ở đâu, cha mẹ làm chi, bản thân bây giờ làm chi. Khai rõ ràng chính xác, Cách mạng sẽ khoan hồng. Khai tơ lơ mơ, khai dối láo là bắn ngay tại chỗ. Lúc ấy không hiểu sao Chúa cho tôi đủ sự thông minh và điềm tĩnh nên đã khai hoàn toàn giả, giả từ tên cha mẹ đến tên mình, và giả mọi chi tiết khác, như nghề của cha là kéo xe ba gác, nghề của mẹ bán rau hành ở chợ Xép, bản thân thì đang học trường Kỹ thuật!?! May mà bọn VC chẳng kiểm tra chéo bằng cách hỏi những người cùng giáo xứ bị bắt đêm hôm trước. Bằng không thì tôi cũng rồi đời tại chỗ!

Chúng tôi ngồi tại chùa Từ Đàm suốt cả ngày mồng 7 Tết, không được cho ăn gì cả. Lâu lâu tôi lại thấy VC dẫn về thêm một số tù nhân, trong đó tôi nhớ có cậu Long, 16 tuổi, học sinh, con ông Nguyện ở xóm Đường Đá giáo xứ Phủ Cam. Thỉnh thoảng chúng lại trói ai đó vào gốc cây bồ đề, bắn chết rồi chôn ngay trong sân chùa. Sau này người ta đếm được có 20 xác, trong đó có anh Hoàng Sự, vốn là cảnh sát gác lao Thừa Phủ, bị đám VC khi được thoát tù đã bắt đem theo lên đây.

VC cũng cho một vài kẻ về nhắn thân nhân bới cơm nước lên cho người nhà, nhưng với điều kiện: nhắn xong phải đến lại trong ngày, bằng không bạn bè sẽ bị chết thế. Thế là một số anh em Phủ Cam lên tiếng xin thả ông Hồ (khá lớn tuổi, làm nghề hớt tóc, nhà ở gần cabin điện đường Hàm Nghi) để ông về lo chuyện tiếp tế thực phẩm. Tay VC liền hỏi: “Ai tên Hồ?” thì có một cậu thanh niên nào đó nhảy ra nói: “Hồ đây! Hồ đây!” Thế là nó được thả về và rồi trốn luôn, thoát chết. Một vài bạn trẻ cùng tuổi với tôi cũng được cho về nhắn chuyện bới xách rồi quyết không lui, nhờ vậy thoát khỏi cơn thảm tử. Còn ai vì hãi sợ hay thương bạn mà lên lại Từ Đàm thì cuối cùng bị mất mạng như tôi sẽ kể. Các “sứ giả” về thông báo với bà con là ai có thân nhân “đi học tập” hãy bới lương thực lên chùa Từ Đàm. Vậy là vài hôm sau, người ta ùn ùn gánh gồng lên đó gạo cơm, cá thịt, muối mắm, bánh trái ê hề (Tết mà!)… Họ chẳng thấy thân nhân đâu mà chỉ gặp mấy tên cán bộ VC bảo họ hãy an tâm trở về nhưng để đồ ăn lại. Nhờ mưu mô thâm độc này mà VC tạo được một kho lương thực khổng lồ để ăn mà đi giết người tiếp!!

Lân la dò hỏi và nhìn quanh, tôi thấy trong số thanh niên Phủ Cam bị bắt có rất nhiều người bạn của tôi: anh Trị tây lai con ông Ngọc đàn ở nhà thờ, con trai ông Hoàng lương y thuốc Bắc ở chợ Xép, hai con trai ông Thắng nấu rượu, hai con trai ông Vang thổi kèn, anh Thịnh con ông Năm, hai anh em Bình và Minh con ông Thục mà một là bạn học với cha Phan Văn Lợi… Tôi cũng nghe nói có hai thầy đại chủng viện mà sau này tôi mới biết là thầy Nguyễn Văn Thứ, nghĩa tử của cha Nguyễn Kim Bính và bạn cùng lớp với cha Nguyễn Hữu Giải, rồi thầy Phạm Văn Vụ, đồng nghĩa phụ với cha Lợi…

Khi trời bắt đầu sẫm tối, VC bắt chúng tôi ra sân xếp hàng và một tên tuyên bố:

- Anh em yên tâm! Như đã nói, Cách mạng đưa anh em đi học tập 3 ngày cho thấm nhuần đường lối rồi sẽ về thôi! Bây giờ chúng ta lên đường!

Rồi chúng bắt đầu dùng dây điện thoại trói thúc ké từng người một chúng tôi, trói xong chúng xâu lại thành chùm bằng một sợi dây kẽm gai, 20 người làm một chùm. Tôi nhớ là đếm được trên 25 chùm, tức hơn 500 người

Khi chúng tôi bị lôi ra đường (đường Phan Bội Châu hiện giờ), chừng 7g tối, tôi thấy có một đoàn cố vấn dân sự Hoa Kỳ khoảng 14 người cũng bị trói nhưng sau đó được dẫn đi theo ngã khác hẳn. Áp giải chúng tôi lúc này không phải là VC nằm vùng, địa phương, nhưng là bộ đội miền Bắc, khoảng 30 tên. Bọn nằm vùng ở lại để đi bắt người tiếp. Bỗng một kẻ mặc áo thầy chùa xuất hiện, đến cạnh chúng tôi mà nói:

- Mô Phật! Dân Phủ Cam bị bắt cũng nhiều đây! Chỉ thiếu Trọng Hê và Phú rỗ!

- Trọng (con ông Hê) và Phú (mặt rỗ) là hai thanh niên công giáo, nhưng lại là “tay anh chị” khét tiếng cả thành phố. Về sau tôi được biết đa phần những thanh niên bị bắt đêm mồng 6 Tết tại nhà thờ Phủ Cam và sau đó bị giết chết đều là học sinh, sinh viên, thanh niên nhút nhát hiền lành. Còn hạng can đảm, có máu mạo hiểm hay hạng “du dãng, anh chị” đều đã đi theo binh lính, dân quân để chiến đấu tự vệ hoặc nhanh chân trốn chạy, không tới nhà thờ trú ẩn, nên đều thoát chết. Sự đời thật oái oăm!

Hết đường Phan Bội Châu, chúng tôi đi vào đường Tam Thai (bên trái đàn Nam Giao), sau đó men theo đường vòng đan viện Thiên An, xuôi về lăng Khải Định (xin xem bản đồ). Từ con đường trước lăng Khải Định, VC dẫn chúng tôi bọc phía sau trụ sở quận Nam Hòa (lúc đó chưa bị chiếm), ra đến bờ sông Tả Trạch (thượng nguồn sông Hương). Chúng tôi lầm lũi bước đi trong bóng tối, giữa trời mờ sương và giá lạnh, vừa buồn bã vừa hoang mang, tự hỏi chẳng biết số phận mình rồi ra thế nào, tại sao VC lại tấn công vào đúng ngày Xuân, giữa kỳ hưu chiến!?!

Tới bờ sông, VC cho chặt lồ ô (nứa) làm bè để tất cả đoàn người vượt qua phía bên kia mà sau này tôi mới biết là khu vực lăng Gia Long, thuộc vùng núi Tranh hay còn gọi là vùng núi Đình Môn Kim Ngọc. Lúc ấy vào khoảng 9g tối. Từ đó, chúng tôi bắt đầu đi sâu vào rừng, lúc lên đồi, lúc xuống lũng, lúc lội qua khe, lần theo con đường mòn mà thỉnh thoảng lại được soi chiếu bằng những cây đèn pin hay vài ngọn đuốc của 30 tên bộ đội. Tôi thoáng thấy tre nứa và cây cổ thụ dày đặc. Trời mưa lâm râm. Đến khoảng 11g rưỡi đêm, chúng tôi được cho dừng lại để tạm nghỉ ăn uống. Tôi đoán chừng đã đi được hơn chục cây số. Mỗi người được phát 1 vắt cơm muối mè, đựng trên lá ráy. Hai cánh tay vẫn bị trói. Ít người ăn nổi. Riêng tôi làm 2 vắt.

Ăn xong thì được cho ngủ. Chúng tôi ngồi gục đầu dưới cơn mưa, cố gắng chợp mắt để lấy lại sức. Bỗng nhiên như có linh tính, tôi chợt choàng dậy và thấy rung động toàn thân hết sức dữ dội. Máu tôi sôi sùng sục trong đầu. Có chuyện chẳng lành rồi đây! Quả thế, tôi thoáng nghe hai tên VC gần kề nói nhỏ với nhau: “Trong vòng 15–20 phút nữa sẽ thủ tiêu hết bọn này!” Tôi nghe mà bủn rủn cả người! Nghĩ mình đang là học sinh vô tội, lại còn trẻ trung, thế mà 15 phút nữa sẽ bị giết chết, tôi như muốn điên lên. Dù thế tôi vẫn cầu nguyện: “Lạy Chúa, từ lâu Chúa dạy con phải hiền lành thật thà, không được làm hại ai, vậy mà giờ đây lại có người muốn giết con và các bạn của con nữa. Xin Chúa ban cho con mưu trí, can đảm và sức mạnh để tự giải thoát mình…”. Tôi ghé miệng vào tai thằng bạn bị trói ngay trước mặt: “Tụi mình rán mở dây mà trốn đi! Mười lăm phút nữa là bọn hắn bắn chết hết đó!”. Chúng tôi quặt ra tay sau, âm thầm lần múi dây trói. Nhờ trời vừa mưa vừa tối, dây điện thoại lại trơn nên chỉ ít phút sau là nút buộc lỏng, vung mạnh cánh tay là sẽ bung ra. Chúng tôi cũng mở múi buộc dây thép gai đang nối mình với những người khác. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn giữ vị thế bị trói thúc ké, để bọn VC khỏi nghi ngờ. Tôi dặn thằng bạn tiếp: “Hễ tao vỗ nhẹ sau lưng là tụi mình chạy nghe!”

Đánh thức chúng tôi dậy xong, một tên lên tiếng nói lớn cho cả đoàn:

- Chúng ta sắp đến trại học tập rồi. Vậy trong anh em ai có một là vàng, hai là tiền, ba là đồng hồ, bốn là bật lửa thì nộp lại để Cách mạng giữ cho, học xong 3 ngày sẽ trả. Kẻo vào trại, ăn cắp lẫn nhau rồi lại đổ lỗi cho Cách mạng, nói xấu cán bộ!

Thế là mọi người riu ríu và khổ sở móc ra những thứ quý giá còn giữ trong người. Ai chậm chạp hoặc ngần ngừ thì mấy tên bộ đội tới “giúp” cho. Bọn chúng lột sạch và cho tất cả vào mấy cái ba lô vải. Lúc đó tôi mới để ý thấy tay bộ đội áp giải chùm của tôi đang mang trên hai vai và cột quanh lưng ít nhất cả chục cái radio lớn nhỏ mà chắc hắn đã cướp được của dân dưới thành phố. Với khẩu AK trên tay lại thêm từng ấy máy móc trên người, hắn bước đi lặc lè, chậm chạp, khá cách quãng mấy tên khác.

Chúng tôi lại bắt đầu đi xuống dốc. Tôi nghe có tiếng nước róc rách gần kề. Lại một khe nữa! Được vài bước, tôi vỗ nhẹ vào lưng thằng bạn. Cả hai chúng tôi vung tay, dây tuột, và nhanh nhẹn phóng ra khỏi hàng. Lấy hết sức bình sinh, tôi đá mạnh vào gót rồi vào dưới cằm tên bộ đội áp giải (tên mang cả chùm radio ấy!). Hắn ngã nhào. Hai chúng tôi lao vào rừng lồ ô. Bọn VC tri hô lên: “Bắt! Bắt! Có mấy thằng trốn” rồi nổ súng đuổi theo chúng tôi. Chạy khoảng mấy chục mét, thoáng thấy có một lèn đá -vì trời không đến nỗi tối đen như mực- tôi kéo thằng bạn lòn vào trong mất dạng. Tôi dặn hắn: “VC nó kêu, nó dụ, tuyệt đối không bao giờ ra nghe! Ra là chết!” Một lúc sau, tôi nghe có tiếng nói trong bóng đêm: “Bọn chúng chạy mất rồi, nhưng rừng sâu thế này khó mà thoát chết nổi! Thôi đi tiếp!!!”.

Khi nghe tiếng đoàn người đi khá xa, chúng tôi mới bò ra khỏi lèn, đi ngược lên theo hướng đối nghịch. Chừng 15-20 phút sau, tôi bỗng nghe từ phía dưới vọng lên tiếng súng AK nổ vang rền và lựu đạn nổ tới tấp, phải mấy chục băng và mấy chục quả. Một góc rừng rực sáng! Chen vào đó là tiếng khóc la khủng khiếp –chẳng hiểu sao vọng tới tai chúng tôi rõ ràng- khiến tôi dựng tóc gáy, nổi da gà và chẳng bao giờ quên được. Hai chúng tôi đồng nấc lên: “Rứa là chết cả rồi! Rứa là chết cả rồi! Trời ơi!!!” Lúc đó khoảng 12 đến 12g30 khuya đêm mồng 7 rạng ngày mồng 8 Tết. Tôi bàng hoàng bủn rủn. Sao lại như thế? Các bạn tôi dưới ấy đều là những người hiền lành, chưa lúc nào cầm súng, chưa một ngày ra trận, chẳng hề làm hại ai, họ có tội tình gì? Bọn chúng có còn là người Việt Nam nữa không? Có còn là người nữa không? Sau này tôi mới biết đấy là vụ thảm sát khủng khiếp nhất trong cuộc chiến Quốc-Cộng. Địa danh Khe Đá Mài –mà lúc ấy tôi chưa rõ- in hằn vào lịch sử nhân loại và cứa vào da thịt dân tộc như một lưỡi dao sắc không bao giờ cùn và một thỏi sắt nung đỏ chẳng bao giờ nguội.

Chúng tôi tiếp tục chạy, chạy mãi, bất chấp lau lách, gai góc, bụi bờ, vừa chạy vừa thầm cảm tạ Chúa đã cho mình thoát chết trong gang tấc nhưng cũng thầm cầu nguyện cho những người bạn xấu số vừa mới bị hành quyết quá oan ức, đau đớn, thê thảm. Sáng ra thì chúng tôi gặp lại con sông. Biết rằng bơi qua ngay có thể gặp bọn VC rình chờ bắt lại, chúng tôi men theo sông, ngược lên thượng nguồn cả mấy cây số, đến vùng Lương Miêu thượng. Tới chỗ vắng, tôi hỏi thằng bạn:

- Mày biết bơi không?

- Không!

- Tao thì biết. Thôi thì hai đứa mình kiếm hai cây chuối. Mày ôm một cây xuống nước trước, tao ôm một cây bơi sau, đẩy mầy qua sông. Rán ôm thật chặt, thả tay là chìm, là chết đó. Trời này lạnh tao không lặn xuống cứu mày được mô!

Đúng là hôm đó trời mù sương và lạnh buốt. Thời tiết ấy kéo dài cả tháng Tết tại Huế. Có vẻ như Ông Trời bày tỏ niềm sầu khổ xót thương bao nạn nhân vô tội ở đất Thần Kinh này. Vừa bơi tôi vừa miên man nghĩ tới các bạn tôi. Máu của họ có xuôi theo triền dốc, hòa vào giòng nước sông Tả trạch này chăng? Oan hồn họ giờ đây lảng vảng nơi nào? Có ai còn sống không nhỉ?

Chúng tôi cập gần bến đò Lương Miêu. Từ đây, xuôi dòng sẽ về trụ sở quận Nam Hòa, hy vọng gặp binh lính quốc gia, nhưng cũng có nguy cơ gặp bọn VC chặn đường bắt lại. Thành thử chúng tôi nhắm hướng bắc, tìm đường về Phú Bài. Thằng bạn tôi, do suốt đêm bị gai góc trầy xước, đề nghị đi trên đường quang cho thoải mái. Tôi gạt ngay:

- Ban đêm thì được, chớ ban ngày thì nguy lắm. Chịu khó lần theo đường mòn!

Chúng tôi thấy máu và bông băng rơi vãi nhiều nơi, chứng tỏ có trận đánh gần đâu đó. Đang đi, tôi đột nhiên hỏi thằng bạn:

- Chừ gặp dân thì mày trả lời ra răng, nói tao nghe.

- Nhờ anh chứ tôi thì chịu!

Lúc khoảng 9g, chúng tôi gặp 3 thằng bé chăn trâu. Tôi lên tiếng nói:

- Hai anh là học sinh ở đường Trần Hưng Đạo dưới phố (con đường chính của khu buôn bán, không nói là Phủ Cam). Cách mạng (không gọi là Việt cộng) số về đánh dưới, số còn trên ni. Hai anh vừa mang gạo lên chiến khu hôm qua cho họ. Nay họ cho hai anh về, nhưng ướt cả áo quần lại đói nữa. Mấy em biết Cách mạng có ở gần đây không, chỉ cho hai anh, để hai anh kiếm chút cơm ăn, kẻo đói lạnh quá!

- Hai anh qua khỏi đường này thì sẽ thấy mấy ông Cách mạng đang hạ trâu ăn mừng!

Thế là chúng tôi hoảng hốt tuôn vào rừng lại. Chạy và chạy, chạy tốc lực, chạy như điên, không dừng lại để nghỉ. Một đỗi xa, chúng tôi mới hướng ra lại đồng bằng. Bỗng một đồn lính xuất hiện đằng xa, đến gần thấy bên trong lố nhố mũ sắt. Phe ta rồi! Lần này thì vô đây chứ không đi mô nữa cả. Nhất định vô! Lúc đó khoảng 10 giờ trưa. Đây là đồn biên phòng của một đơn vị quân lực VN Cộng Hòa. Chúng tôi nghe từ trong đồn có tiếng dõng dạc vang vọng:

- Hai thằng VC muốn về hồi chánh hả? Vào đi! Nhớ để tay lên đầu. Thả tay xuống là bắn đó!

Chúng tôi nhất nhất tuân theo. Vào được bên trong, hoàn hồn, chúng tôi mới nói:

- Hai đứa em là học sinh ở dưới Phủ Cam, Phước Quả, bị VC bắt lên rừng từ tối hôm qua với mấy trăm người khác. Nghe tụi nó định giết hết, hai đứa em đã liều mở dây trói, đánh thằng VC rồi bỏ chạy. Còn mấy người kia chắc là chết hết cả rồi! Giờ tụi em chỉ có một nguyện vọng: xin đồn phát súng cho bọn em đánh giặc với, chớ không thể đi ra khỏi đồn nữa.

Viên sĩ quan chỉ huy cất tiếng:

- Tổ quốc đang lâm nguy! Đứa con nào trung, đứa con nào hiếu lúc này là biết liền. Thôi, mấy em thay áo quần, xức thuốc xức men, ăn uống thoải mái rồi ở lại với mấy anh. Tội nghiệp!!!

Họ hỏi chúng tôi về chỗ xảy ra cuộc hành hình nhưng chúng tôi hoàn toàn không thể trả lời được. Giữa rừng rậm lại đêm khuya, biết đâu mà lần. Gần nửa tháng sau tôi mới gặp lại gia đình họ hàng, bằng hữu thuộc giáo xứ Phủ Cam đang chạy về lánh nạn tại Phú Lương và Phú Bài. Hai chúng tôi quyết định bỏ học để đăng lính. Phải cầm súng bảo vệ tổ quốc thôi. Phải báo thù cho anh em bạn bè bị VC giết quá ư dã man, tàn ác, vô nhân đạo. Tôi nhập bộ binh. Thằng bạn tôi đi nhảy dù. Nhưng vài năm sau, tôi nghe tin nó chết trận! Tội nghiệp thật, nhưng đó là cái chết ý nghĩa!

Đến gần tháng mười năm 1969, nhờ bắt được và khai thác mấy tù binh VC, chính phủ VNCH mới biết địa điểm tội ác chính là Khe Đá Mài, nằm trong rừng Đình Môn Kim Ngọc thuộc quận Nam Hòa (nay là xã Dương Hòa, quận Hương Thủy). Nơi đây không thể vào được bằng xe vì đường đi không có hoặc không thể đi lọt, mà chỉ vào được bằng lội bộ. Cây cối chỗ này rất cao, lá dày và mọc theo kiểu hai tầng, tầng thấp gồm những bụi tre và cây nhỏ, tầng cao gồm những cây cổ thụ, với những nhánh lớn xoè ra như lọng dù che khuất đi những gì bên dưới. Bên dưới hai tầng lá này, ánh sánh mặt trời không chiếu sáng nổi. Đúng là nơi có thể giết người mà không cần phải chôn cất. Công binh đã phải bỏ hai ngày, dùng mìn phá ngã các cây cổ thụ để tạo ra một khoảng trống lớn đủ cho máy bay trực thăng đáp xuống, và tiểu đoàn 101 Nhảy Dù Quân lực VNCH đã phụ trách việc bốc các di hài nạn nhân. Các binh sĩ đã tìm thấy cuối một khe nước chảy trong veo (về sau mang thêm tên Suối Máu, Phủ Cam Tử lộ), cả một núi hài cốt, nào sọ, nào xương sườn, nào xương tay xương chân trắng hếu, nằm rời rạc, nhưng cũng có những bộ còn khá nguyên. Xen vào đó là dây điện thoại và dây thép gai vốn đã trói chúng tôi thành chùm. Rồi áo quần (vải có, da có, len có) nguyên chiếc hay từng mảnh, lỗ chỗ vết thủng. Rồi tràng chuỗi, tượng ảnh, chứng minh thư, ống hít mũi, lọ dầu nóng… vương vãi trên bờ, giữa cỏ, dưới nước. Nhờ những di vật này mà một số nạn nhân sẽ được nhận diện. Khi tất cả hài cốt, di vật được chở về trường tiểu học Nam Hòa (nay gọi là Thủy Bằng) bên hữu ngạn sông Hương, đem phân loại, thân nhân đã ùa đến và không ai cầm nổi nước mắt. Tất cả òa khóc, nghẹn ngào. Có người cầu nguyện, có người nguyền rủa, có người lăn ra ngất xỉu khi khám phá vật dụng của người thân. Cái chủ nghĩa nào, cái chế độ nào, cái chính đảng nào đã chủ trương dã man như thế? đã tạo ra những con người giết đồng bào ruột thịt cách tàn nhẫn như thế?
Cuối cùng, đa phần các hài cốt (hơn 400 bộ) được quy tập một chỗ, mang tên nghĩa trang Ba Tầng, nằm phía Nam thành phố Huế, khá cận kề khu vực Từ Đàm (đất của Phật giáo) và Phủ Cam (đất của Công giáo). Nghĩa trang xây thành hình bán nguyệt. Hai bên, phía trước, có hai bàn thờ che mái, cho tín đồ Phật giáo và Công giáo đến cầu nguyện. Ở giữa, phía sau, một trụ đá dựng đứng với giòng chữ Hán làm bia tưởng niệm. Từ đó, tại giáo xứ Phủ Cam của tôi, hàng năm, ngày mồng 10 Tết được coi là ngày cầu nguyện tưởng nhớ các nạn nhân Mậu Thân. Chúng tôi có thể tha thứ cho người Cộng sản nhưng chúng tôi không bao giờ quên được tội ác của họ, y như một câu ngạn ngữ tiếng Anh: “Forgive yes! Forget no!”

Tiếc thay, sau khi vừa chiếm được miền Nam, Cộng sản đã dùng mìn phá ngay trụ bia và hai bàn thờ. Lại thêm một phát súng vào hương hồn các nạn nhân mà nỗi oan vẫn chưa được giải. Đến bao giờ họ mới được siêu thoát đây? Cũng phải nói thêm một điều đáng tiếc nữa là trong Đại hội thường niên từ 8 đến 12-10-2007 năm nay tại Hà Nội, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã hoàn toàn im lặng trước đề nghị Giáo hội Công giáo VN hãy tưởng niệm 40 biến cố này, theo như Thỉnh nguyện thư mà cha Giải, cha Lợi cùng nhiều linh mục và giáo dân khác đã viết hôm 29-09-2007.

Hai Lm. Nguyễn Hữu Giải và Phan Văn Lợi kể lại trong tháng kính các đẳng linh hồn, 11-2007.
Tết Mậu Thân: 'Những bộ hài cốt Khe Đá Mài'
  • 9 tháng 2 2018
"Tại giáo xứ Phủ Cam, trước đây cứ đến khoảng ngày mùng 6, mùng 7 Tết là nhiều linh mục của giáo xứ lên núi Bân để làm lễ," linh mục Phan Văn Lợi từ Huế nói với BBC.
"Ở khu mộ tập thể trên núi Bân có hai bàn thờ, một bên cho Phật giáo, một bên cho Thiên Chúa giáo."
"Nhưng sau 1975, người ta đã phá huỷ hai bàn thờ đó và để cho nấm mộ hoang tàn, cỏ mọc um tùm."
Núi Bân, còn có tên là núi Ba Tầng, nằm về phía nam thành phố Huế. Nơi đây có khu nghĩa trang chôn cất hơn 400 bộ hài cốt, đa phần là được tìm thấy tại Khe Đá Mài hồi cuối năm 1969.
Việc phát hiện ra hàng trăm bộ hài cốt lộ thiên, dồn đống với những dấu hiệu giống như bị giết chết khiến địa điểm nằm sâu trong rừng rậm, cách thành phố Huế chừng 15km về phía nam, được nhắc tới như sự kiện bi thảm nhất xảy ra tại cố đô.
Số hài cốt tìm được trong "vụ thảm sát Khe Đá Mài" vẫn là điều chưa rõ ràng, tuy tin tức về vụ việc được loan tải rộng khắp trên truyền thông Sài Gòn.
Con số chính thức mà Ngũ Giác Đài nêu tại thời điểm ban đầu là 250 bộ hài cốt, nhưng Douglas Pike, chuyên gia của Phòng Thông tin Mỹ điều tra về vụ việc, đưa ra sau đó vài tháng là 428, theo Gareth Porter, người giảng môn chính trị Đông Nam Á của trường American University's School of International Service.
Trận chiến thành Huế
Ngày 30/1/1968, lực lượng Bắc Việt và Mặt trận Giải phóng bất ngờ đồng loạt tấn công trên toàn lãnh thổ miền Nam Việt Nam.
Trong lúc ở hầu hết các tỉnh thành, làn sóng tấn công nhanh chóng bị bẻ gãy sau vài ngày, thì riêng ở Huế, phe cộng sản đã chiếm giữ thành phố được cho tới cuối tháng Hai.
Sau khi Mỹ và Việt Nam Cộng hòa tái chiếm cố đô, hơn 10 mồ chôn tập thể được phát hiện ở quanh Huế.
Ước tính tổng số người bị giết trong thời gian quân Bắc Việt và Việt Cộng làm chủ thành phố là từ hàng trăm cho tới hàng ngàn người.
Vào 9/1969, "theo lời khai của một số người Việt Cộng, người ta đã lên Khe Đá Mài để tìm", linh mục Phan Văn Lợi nói, và đã "tìm được những bộ xương".
Tại đây, "bên cạnh các bộ xương, người ta đã tìm được y phục, những chuỗi tượng của người Công giáo và những thẻ căn cước".
"Sau đó, người ta đem tất cả các bộ xương này, các vật dụng còn sót lại, y phục, thẻ bọc nhựa về trường tiểu học Nam Hoà."
"Rất nhiều người tại Phủ Cam đã đến trường đó và có những người may mắn nhận ra được những vật dụng của thân nhân họ."
Câu chuyện của nhân chứng
Linh mục Phan Văn Lợi nói ông đã "may mắn thoát khỏi biến cố".
"Cộng sản tấn công Huế vào ngày mùng 1 Tết. Sáng hôm đó tôi đã về làng quê, làng Dương Sơn, cách Huế chừng 8 km. Nếu họ tấn công vào đêm 30 Tết như ở các khu vực từ Quảng Nam tới Khánh Hoà thì chắc chắn tôi không thể thoát ra khỏi thành phố được."
Sau khi cộng sản rút lui, linh mục Phan Văn Lợi trở về thành phố và "làm trong một văn phòng cứu trợ của tôn giáo, cứu trợ những nạn nhân Tết Mậu Thân".
"Tôi đã gặp rất nhiều người. Họ tường thuật lại những chuyện đã xảy ra và sự khốn khổ của họ."
 Linh mục Phan Văn Lợi nói ông lần đầu tiên tình cờ gặp nhân chứng vụ Khe Đá Mài vào năm 2007, và vẫn giữ liên hệ với nhau kể từ đó tới nay
Nhưng có lẽ đặc biệt nhất là lần gặp gỡ tình cờ giữa ông với một người, 40 năm sau khi ông có các hoạt động cứu trợ Mậu Thân, và là khi những người Cộng sản đã làm chủ cả nước được hơn 30 năm.
Cuộc gặp diễn ra vào năm 2007.
"Người này là nhân chứng duy nhất còn sống sót của vụ thảm sát tại Khe Đá Mài."
"Tôi đã mời ông ấy đến nhà, nghe ông ấy tường thuật và sau đó tôi viết lại theo lời của ông ấy."
Hiện hai người vẫn giữ mối liên lạc thường xuyên, linh mục Phan Văn Lợi cho BBC biết.
Tuy nhiên, vì lo sợ cho sự an toàn bản thân nên nhân chứng, một thanh niên mới 17 tuổi vào thời điểm Tết Mậu Thân, từ chối tiếp xúc với BBC.
Người thứ hai chạy thoát cùng nhân chứng đã chết trong những năm chiến tranh sau đó.
Lời kể giúp dựng lại những gì đã xảy ra, "từ lúc đoàn người bị bắt đi" cho tới lúc nhân chứng sống sót "nghe thấy tiếng đạn" và những âm thanh cuối cùng từ các nạn nhân, linh mục Phan Văn Lợi nói.
Nhân chứng nói với ông Lợi rằng người đó là một trong những thanh niên bị bắt đi từ nhà thờ Phủ Cam hôm mùng 6 và mùng 7 Tết Mậu Thân.
"Họ bị dẫn lên chùa Từ Đàm. Ở đó có thêm một số người khác nữa, nhưng đại đa phần là người từ giáo xứ Phủ Cam, những thanh niên đã trốn trong nhà thờ."
Trước đó, khu vực nhà thờ được một số nghĩa quân địa phương và binh lính (VNCH) "canh tất cả các đường đi vào", nên phía Cộng sản đã không thể vào được trong mấy ngày đầu.
Do không có tiếp viện, các quân nhân này sau đó phải chạy đi, theo lời nhân chứng.
Lực lượng cộng sản nói với những người bị gom, "Anh em đừng lo, cách mạng tới giải phóng cho nên đi học tập ba ngày rồi sẽ về," linh mục Phan Văn Lợi thuật lại lời nhân chứng.
"Khi họ bị giam tại chùa Từ Đàm, cán binh Việt Cộng đã cho một vài người về nhắn với gia đình của những người ở Phủ Cam là hãy gửi đồ tiếp tế lên để cho họ có thể ăn uống."
"Vì vậy, rất nhiều những thân nhân của những người bị bắt đó đã gánh gồng lên chùa Từ Đàm."
"Tuy nhiên, khi lên tới nơi họ biết rằng đoàn người đã không còn ở đó nữa. Các cán bộ bảo hãy để lại đồ để tiếp tế."
Số đồ đó không bao giờ đến tay người nhận, theo lời nhân chứng, bởi họ đã bị dẫn tới vùng rừng núi "không rõ là ở đâu".
'Cần giải oan'
"Trong hoàn cảnh chiến tranh, chuyện tên bay đạn lạc là chuyện bình thường, điều này đã xảy ra ở nhiều nơi trong chiến trận Mậu Thân như ở Sài Gòn."
"Nhưng tại Huế, lực lượng Cộng sản chiếm 26 ngày."
Người dân chạy nạn trở về Huế sau khi binh lính Mỹ và VNCH tái chiếm thành phố (hình chụp 13/3/1968)
Hàng trăm thanh niên trong nhà thờ Phủ Cam khi đó "tất cả đã đi không trở lại", linh mục Phan Văn Lợi nói.
"Đây không thể nói là lầm lẫn hay là tên bay lạc đạn trong chiến tranh được."
"Tại Phủ Cam, có những người vẫn giữ được kỷ vật của thân nhân mà họ đã lấy được, đã thu được trong sân trường tiểu học Nam Hoà."
Những gì được biết, được chứng kiến, được nghe kể là lý do khiến ông "có một chiến dịch cầu nguyện", linh mục Phan Văn Lợi nói với BBC.
"Tôi vẫn tiếp tục cầu nguyện cho các oan hồn, cho những người đồng bào của chúng ta được giải thoát."
"Tôi cũng cầu nguyện cho những người cán binh Cộng sản đã bị đẩy vào một trận chiến mà chắc chắn họ không ngờ rằng lại gây ra bao nhiêu tai hại cho đồng bào của mình, cho đất nước."
"Những gia đình có thân nhân chết trong Mậu Thân là chết oan. Bây giờ họ chỉ mong là nhà nước này lên tiếng nhận trách nhiệm để cho các vong hồn được giải oan."
"Đó là điều mà 50 năm rồi người ta không thấy."
Cuộc phỏng vấn linh mục Phan Văn Lợi được thực hiện trong tháng 1/2018, nhân dịp 50 năm trận Tết Mậu Thân.

No comments: