Nhà lý luận của đảng Cộng Sản Trung Quốc Vương Hộ Ninh (Wang
Huning). Ảnh chụp tại kỳ họp Quốc Hội Trung Quốc, ngày 08/03/2017.REUTERS/Jason
Lee
Trọng Thành 26-10-2017 Tại Đại hội 19 đảng Cộng Sản (CS) Trung Quốc
vừa diễn ra, công chúng dường như đang chứng kiến một « thời đại mới » của nước
Trung Hoa đang mở ra, với sự lên ngôi của « tư tưởng » Tập Cận Bình, người từ
giờ thâu tóm mọi quyền lực trong tay, chấm dứt thời kỳ quyền lực được chia năm
sẻ bảy. Tuy nhiên, theo nhiều nhà quan sát, viễn cảnh « thời đại mới » mà ông Tập
Cận Bình chủ trương trên thực tế chỉ là một giai đoạn tiếp nối của chế độ «
chuyên quyền/độc tài » của Trung Quốc trong kỷ nguyên toàn cầu hóa. Kiến trúc
sư của ý thức hệ chính trị này, người được mệnh danh là « Kissinger Trung Quốc
», vừa trở thành một trong 7 thành viên thường vụ Bộ Chính Trị đảng CS, cơ quan
quyền lực tối cao tại Trung Quốc, cũng là một « quốc sư » của hai đời lãnh đạo
tiền nhiệm.
Trang quốc tế, báo Le Monde hôm nay,
26/10/2017, có bài « Vương Hộ Ninh, quân sư của chế độ, bước ra sân khấu».
Nội dung chính của bài viết được chắt lọc từ một bài nghiên cứu mới đây của nhà
Trung Quốc học Jude Blanchette, mang tựa đề « Giấc mơ chuyên quyền mới của Vương Hộ Ninh».
Đến với Giang Trạch Dân từ năm 1995
Giáo sư Vương Hộ Ninh (Wang Huning) đã được
lãnh đạo Giang Trạch Dân (Jiang Zemin) đưa lên Bắc Kinh từ năm 1995, khi ông
còn là trưởng khoa luật Đại học Phục Đán (Fudan), ở Thượng Hải. Vào thời điểm
đó, ông Vương đã là một học giả trẻ, thành đạt, tác giả của cả chục cuốn sách.
Học giả tứ tuần này cũng là người quyết liệt chống lại « nạn tham nhũng
trên thượng tầng chế độ », được coi là mối đe dọa đối với sự tồn vong
của đảng CS Trung Quốc (sau hai biến cố chấn động Thiên An Môn 1989 và Liên Xô
sụp đổ 1991).
Vương Hộ Ninh được bổ nhiệm phụ trách ban
nghiên cứu chính trị của Trung tâm nghiên cứu chính sách trung ương, cơ quan tư
vấn của ban lãnh đạo đảng CS Trung Quốc. Năm 2002, giáo sư Vương Hộ Ninh trở
thành ủy viên Ban Chấp Hành Trung Ương đảng CS. Tên tuổi của giáo sư Vương gắn
liền với các quan điểm mới trong cương lĩnh của đảng CS Trung Quốc, như thuyết
« Ba Đại Diện » (2002) thời Giang Trạch Dân, quan điểm « Phát
Triển Khoa Học » (2007) thời Hồ Cẩm Đào, và giờ đây là « Giấc
mộng Trung Hoa » của Tập Cận Bình.
Ông Vương Hộ Ninh từng theo học tiếng Pháp,
ngôn ngữ mà ông thành thạo, trước khi được đào tạo về chính trị quốc tế và luật.
Sau khi trở thành giáo sư, ông đã có nhiều chuyến công du Hoa Kỳ, với tư cách
nhà nghiên cứu, trong những năm 1980. Chính trong các chuyến đi này, Vương Hộ
Ninh rút ra một nhận xét : Washington là đối thủ lớn nhất của Trung Quốc. Năm
1991, ông Vương xuất bản cuốn sách « Nước Mỹ chống lại nước Mỹ »,
nhằm lý giải sức mạnh cùng các nhược điểm của siêu cường số một thế giới.
Kinh nghiệm Mỹ và « con đường phục hưng »
Vào thời điểm đó, giáo sư Vương khẳng định
nghĩa vụ của một trí thức Trung Quốc là hiểu được vì sao một nền văn minh Trung
Hoa hơn 2000 năm tuổi có thể suy tàn, trong lúc một quốc gia trẻ như Hoa Kỳ, với
lịch sử 200 năm, lại có thể vươn mình thành cường quốc đứng đầu thế giới. Vương
Hộ Ninh nhấn mạnh là mọi trí thức Trung Quốc « phải làm điều này »,
vì « đây là một phương tiện để hiểu rõ hơn thế giới và chính mình, để
tìm kiếm con đường làm Trung Quốc trở nên hùng mạnh và thịnh vượng ».
Đây chính là những cơ sở đầu tiên cho chủ trương « phục hưng Trung Quốc »
của « tổng bí thư Tập ».
Những năm 1980 cũng là thời gian mà Vương Hộ
Ninh quan tâm đến hệ thống pháp luật. Trong một bài viết năm 1986, giáo sư
chính trị Đại học Thượng Hải giải thích sở dĩ Cách Mạng Văn Hóa gây ra nhiều hậu
quả, là do « không có sự phân chia quyền lực, giữa công an, công tố và
tòa án ». Một quan điểm như vậy rất được chia sẻ trong giai đoạn mở cửa
chính trị ngắn ngủi này.
Tuy nhiên, ngay sau đó, giáo sư Vương Hộ
Ninh đã trở thành một trong những trí thức tiêu biểu ủng hộ cho một « quyền
lực tập trung mạnh », « phân phối hiệu quả các nguồn lực », đồng thời
« thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh chóng ». Các tư tưởng nói
trên được thể hiện trong một bài viết trên tạp chí của Đại học Phục Đán, tháng
3/1988, mang tựa đề « Phân tích về các hình thức cầm quyền trong quá trình
hiện đại hóa ». Vương Hộ Ninh trở thành một đại diện cho trường phái
tư tưởng chính trị « chuyên quyền mới » (néo-autoritarisme).
Nàng « tự do » và chàng « chuyên chế »
Nhà Trung Quốc học Jude Blanchette, trong
bài viết « Giấc mơ chuyên quyền mới của Vương Hộ Ninh », nhấn
mạnh là cần phải nắm được lý thuyết chính trị nói trên để hiểu được « giai
đoạn siêu bảo thủ hiện nay tại Trung Quốc ».
Theo Jude Blanchette, học thuyết chuyên quyền
mới có điểm chung là chủ trương « ổn định chính trị » là điều
kiện trước hết cho sự phát triển kinh tế, và những vấn đề khác, như dân chủ và
tự do cá nhân sẽ đến sau, khi các điều kiện được hội đủ. Một trong những cộng sự
nỗ lực củng cố tư tưởng « chuyên quyền mới », cùng với Vương Hộ
Ninh, là kinh tế gia Ngô Giá Tường (Wu Jiaxiang).
Nhà nghiên cứu của Trung Ương đảng CS Trung
Quốc biện minh cho giai đoạn chuyên quyền mới trong thời kỳ kinh tế mở cửa, với
hình ảnh ví von như sau. Trước khi chàng « dân chủ » và nàng
« tự do » « kết hôn » được với nhau, có một
thời kỳ gần gũi giữa nàng « tự do » và chàng « chuyên
chế ». Nếu như « dân chủ » và « tự do »
sẽ có suốt cả một đời chung sống, thì có thể coi anh chàng « chuyên chế »
là tình nhân của nàng « tự do » trước cuộc hôn thú chính thức.
Quan điểm của một bộ phận nhóm chuyên quyền
mới nhìn chung tóm lại là : nếu không có «trật tự xã hội », thì
không thể có được « tự do và dân chủ ». Trường phái « chuyên
quyền mới » Trung Quốc coi các con hổ châu Á thành công trong cuộc hiện
đại hóa mới đây, như Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc, Hồng Kông, là các kinh nghiệm
sống, cho thấy hiện đại hóa kinh tế « đòi hỏi (hoặc ít nhất cùng tồn tại
với) một hệ thống chính trị quyết đoán ». Theo họ, một giai đoạn
chuyên quyền như vậy « không phải là quay lui về quá khứ », mà
đây chỉ là « một giai đoạn chuyển tiếp », trong đó giới tinh
hoa có nghĩa vụ dẫn dắt dân chúng tiến lên.
Một lý thuyết từng bị gạt sang lề
Nhà Trung Quốc học Jude Blanchette điểm lại
là quan điểm « chuyên quyền mới » đã từng được hưởng ứng sôi nổi
tại Trung Quốc vào cuối những năm 1980, đặc biệt vào thời điểm trước cuộc thảm
sát Thiên An Môn, tháng 6/1989, trong bối cảnh cải cách kinh tế diễn ra quá
nhanh chóng khiến đảng CS mất khả năng kiểm soát. Xử lý thế nào mâu thuẫn giữa
xu hướng phân quyền không thể tránh khỏi và đòi hỏi duy trì ổn định trên quy mô
toàn quốc là một thách thức không có lời giải vào thời điểm đó.
Vào tháng 3 năm đó, Triệu Tử Dương, tổng bí
thư đảng CS Trung Quốc vào thời điểm đó hỏi ý Đặng Tiểu Bình : « Hiện
nay tại các nước ngoài, có một lý thuyết về chuyên quyền mới, một số nhóm lý luận
trong nước cũng đang thảo luận về vấn đề này ». Lãnh đạo họ Đặng, người
nắm quyền thực sự lúc đó, đáp : « Đây cũng là ý tôi ».
Sau cuộc thảm sát Thiên An Môn, Triệu Tử
Dương bị thanh trừng, học thuyết « chuyên quyền mới » bị dẹp,
mọi nhắc gợi đến một hệ thống chính trị dân chủ hơn sau thời « chuyển
tiếp được cai trị với bàn tay sắt » đều bị gạt bỏ, Trung Quốc bước vào
thời kỳ « tân bảo thủ » trong những năm 1990, đổ xô về với những
gì được coi là cội rễ dân tộc.
Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Jude
Blanchette, cả hai quan điểm chính trị « chuyên quyền mới » và
« tân bảo thủ » đều tiếp tục phát triển song hành trong nhiệm
kỳ 5 năm đầu tiên của ông Tập Cận Bình (2012-2017).
Giáo sư Vương làm gì khi « ổn định »
đã có ?
Bài phân tích khép lại với nhận xét : Từ
hơn 20 năm nay, kể từ khi về trung ương, giáo sư Vương Hộ Ninh không còn viết
thêm gì về « thuyết chuyên quyền mới », tuy nhiên, câu hỏi đặt
ra là liệu có cần viết gì nữa không, khi giờ đây « trật tự và ổn định
đã khải hoàn » và tuy « bầu trời vẫn ở trên cao, nhưng Hoàng đế
đã gần hơn bao giờ hết (*) » ?
Điều đó có thể được hiểu là giờ đây khi các
điều kiện ổn định đã hội đủ, liệu ông Vương có tiếp tục giấc mơ chuyển tiếp từ
chuyên chế sang dân chủ, chưa hoàn thiện năm nào ? Hay « thuyết chuyên
quyền mới » mà ông từng chủ trương rút cục cũng chỉ là một phương thức
hiện đại và hấp dẫn, để biện minh cho truyền thống cai trị độc đoán ngàn năm của
đế chế Trung Hoa ?
----
(*) Theo nhà Trung Quốc học Jude
Blanchette, một cảm nhận phổ biến của người Trung Hoa, tương truyền có từ thời
nhà Nguyên (thế kỷ 13-14), « Hoàng đế xa như Trời cao » (Thiên
cao, Hoàng đế viễn). Sau giai đoạn « hỗn loạn » Cách Mạng Văn
Hóa, do Mao khởi xướng (kéo dài từ năm 1966 đến giữa những năm 1970), nhiều người
Trung Quốc, trong đó có giáo sư Vương Hộ Ninh, càng thấm thía điều này, càng
« kiên quyết tìm cách kéo Hoàng đế (tức lãnh đạo tối cao) về thật gần ».
Một ám ảnh khác xuyên suốt thời kỳ dạy học và nghiên cứu của giáo sư Vương là
tình trạng chính quyền trung ương phó thác hoàn toàn quyền lực cho nhiều thủ
lĩnh địa phương, trong giai đoạn mở cửa kinh tế « hậu Mao »,
được coi là một nguồn hỗn loạn khác.
No comments:
Post a Comment