Lê văn Ngọc
(Một vài ý nghĩ nhân chuyến du lịch Nhật Bản)
Hoàn
toàn không phải là điều nghịch lý như kiểu nói “muốn thấp thì
đứng, muốn cao thì ngồi”; hay là nói điều ngược ngạo với một sự
thật hiển nhiên về sự hơn kém của hai xã hội phơi bầy trước mắt các
du khách đã có tuổi để thấy được lịch sử và nguyên nhân đã tạo nên
những biểu hiện của hai thủ đô nói trên.
Theo Duy vật sử quan thì Hà Nội, thủ đô nước Cộng Hoà Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam (Độc lập-Tự do- Hạnh phúc) đã bỏ xa thủ đô
Đông Kinh của Nhật, một nước đang ở thời kỳ “Tư bản dẫy chết”. Như
thế là cách nhau hai thời kỳ, vì trước khi lên đến Xã hội chủ nghĩa,
Nhật Bản còn phải kinh qua “Thời kỳ quá độ”, với những cuộc đấu
tranh giai cấp và cải cách ruộng đất long trời lở đất nữa mới được.
Trong chuyến đi, tôi có hỏi một bà đồng hành, vừa đi du
lịch Đại Hàn, đúng lúc ở đó đang có những căng thẳng về chính trị,
về người dân Đại Hàn, bà cho biết là họ chẳng có gì lo âu; còn tâm
lý thì tỏ ra có hạnh phúc. Có thể bề ngoài thì như thế, vì thật sự,
những người đi du lịch, với thời gian quá hạn hẹp, chỉ thấy được
phần nào cuộc sống cũng như thái độ của người dân.
Người đi du lịch, chủ yếu vẫn là đi thăm và thưởng ngoạn những cảnh đẹp của thiên nhiên, cùng là những công trình tạo tác tuyệt vời trường tồn qua thời gian. Như qua Paris thì thế nào cũng phải xem Tháp Eiffel, lâu đài Versaille, cùng là ngồi tàu du ngoạn sông Seine; đi thăm thác Niagara để thấy vẻ hùng vĩ của thác nước. Tôi đi Nhật Bản cũng là để thỏa mãn một hiếu kỳ, đến tận xứ sở hoa anh đào vào mùa anh đào nở. Tháng Tư là mùa Xuân của Bắc bán cầu.
Người đi du lịch, chủ yếu vẫn là đi thăm và thưởng ngoạn những cảnh đẹp của thiên nhiên, cùng là những công trình tạo tác tuyệt vời trường tồn qua thời gian. Như qua Paris thì thế nào cũng phải xem Tháp Eiffel, lâu đài Versaille, cùng là ngồi tàu du ngoạn sông Seine; đi thăm thác Niagara để thấy vẻ hùng vĩ của thác nước. Tôi đi Nhật Bản cũng là để thỏa mãn một hiếu kỳ, đến tận xứ sở hoa anh đào vào mùa anh đào nở. Tháng Tư là mùa Xuân của Bắc bán cầu.
Lúc đầu chỉ là vì một chút hiếu kỳ. Thế mà không ngờ lại
được gẫm câu tục ngữ: “Đi ngày đàng, học sàng khôn” với ý
nghĩa chân thực của nó. Tôi nghe bà người Mỹ, qua chuyến đi chơi Đại
Hàn 4 ngày, tức là cũng “cưỡi ngựa xem hoa” nói rằng người dân Đại
Hàn rất hạnh phúc, có phần còn hơn người Nhật. Không có con số thống
kê, hay bằng chứng cụ thể nào cả, tức là chỉ căn cứ vào những người
và cảnh bà gặp trong chuyến du lịch. Tôi cũng vẫn không thích những
con số thống kê của các nhà kinh tế để đánh giá sự giàu nghèo của
một nước. Nếu cứ so sánh số GDP của Việt Nam ngày nay, gọi là hơn
1000 Đôla, thì ai cũng phải bảo người dân VN ngày nay giàu có hạnh
phúc hơn người VN trong chế độ VNCH ngày trước với chỉ có 160 Đôla.
Cái lối chia bình quân lợi tức ấy, không thể nói lên thực trạng của
xã hội. Ngoài ra, nếp sống của con người trong một xã hội gọi là có
văn hoá, không chỉ căn cứ vào mấy yếu tố về tài chính và kinh tế.
Cũng vậy, cuộc sống của người dân Trung Quốc không thể tốt đẹp đáng
sống như người dân Nhật Bản. Nói gì đến Việt Nam.
Vấn đề tỏ rõ là không chỉ làm cho người dân no bụng mà
phải đặt trọng tâm nơi văn hoá. Con người không phải là con vật lao
động như con trâu con bò để mà cho ăn đầy bụng rồi lao động tốt.
Cộng Sản đã đối xử với người dân như thế. Người lao động, tức là thứ
dân, mà theo ngôn ngữ của nhà nho trong xã hội cũ là bọn “thất phu”
của Nhật, ngay từ đầu thế kỷ 20, tức là Nhật Bản mới duy tân được
mấy chục năm, đã là một so sánh thèm muốn cho nhà nho cách mạng Viết
Nam Phan Bội Châu: “Những ngày đầu tiên tiếp xúc với đất nước
Nhật, Phan Bội Châu đã rất phục thái độ và cách cư xử của những
người dân lao động ở đây. Ông cho rằng vì họ được độc lập, họ hiểu
được tư cách một dân tộc văn minh, nếu so sánh với người nước ta,
thì thật là một trời một vực.”(1)
Một sự so sánh đơn giản thế thôi, nhưng là một quyết
định có tính chất định hướng cách mạng quan trọng của hai nhà cách
mạng chân chính: Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Đến bây giờ người
ta mới thấm thía bài học mà hai chí sĩ họ Phan rao giảng.
Lịch sử chỉ chú ý đến chính trị và quân sự, mà lơ là với
văn hoá. Phong trào Duy tân mà người ta vẫn nói là các nhà nho VN
chịu ảnh hưởng nơi các tân thư của Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi là
phong trào vận động đổi mới về văn hoá. Hai cụ Phan đã đọc những
sách ấy và vì muốn thấy cụ thể thành quả, cùng đường lối hữu hiệu
duy tân dã dẫn đến thành công, nên phải sang Nhật.
Trong thời đại của các nhà nho Duy Tân, việc tranh thủ
độc lập cho nước Việt Nam đã được nhìn một cách toàn diện, chứ không
chỉ là độc lập về chính trị. Người ta đã biết nói “dùng người Nhật
để đuổi người Pháp là (dĩ nô dịch chủ- vẫn là nô lệ, chỉ đổi chủ
thôi) thì mục đích của cuộc Đông du với Phan Bội Châu và “Tây du”
(sang Pháp) với Phan Châu Trinh cũng phải kể là theo một chủ trương
“khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” (mở mang dân trí, khơi
dậy tinh thần dân chúng và làm cho cuộc sống của dân giàu). Ai cũng
biết VN bị thua trận và mất nước về tay người Pháp, hoàn toàn là do
sự hủ bại của triều đình Huế đã để cho xã hội VN lạc hậu; cũng giống
như vua quan nhà Mãn Thanh đã để cho xã hội Trung Hoa thua sút các
nước Tây phương, mà việc duy tân của Nhật Bản thành công đã là tiếng
chuông cảnh tỉnh.
Sự so sánh người dân nước ta với nước Nhật dưới con mắt
của Phan Bội Châu (có thể là vẫn còn đúng với ngày nay dù đang sống
trong thiên đường XHCN) là có cơ sở từ một nhận định của Phan Châu
Trinh. Cứ theo như Phan Tây Hồ thì có 10 điều bi ai của dân tộc Việt
Nam:
1. - Trong khi người nước ngoài có chí cao dám chết
vì việc nghĩa, vì lợi dân ích nước, thì người nước mình tham sống sợ
chết, chịu kiếp sống nhục nhã đọa đầy. (Thật sự cũng vẫn có
nhiều nhà nho hiên ngang lãnh chịu cái chết hay tù đầy, để mưu đồ
phục quốc; tuy nhiên nhìn chung, đại đa số người dân vốn là nền tảng
của xã hội, đất nước, thì quả chí khí có kém cỏi).
2. - Trong khi người ta dẫu sang hèn, nam hay nữ, ai
cũng lo học lấy một nghề, thì người mình chỉ biết ngồi không ăn bám.
3. -Trong khi họ có óc phiêu lưu mạo hiểm, dám đi khắp
thế giới mở mang trí óc, thì ta suốt đời chỉ loanh quanh xó bếp, hú
hí với vợ con. (
Điều này không đợi tới Phan Châu Trinh mới báo động. Cao Bá Quát,
ngay từ đời Minh Mệnh, đã nói trong một bài thơ cảm hứng khi đi theo
sứ bộ tới Tân Gia Ba:
Nhai văn nhá chữ
buồn ta,
Con giun còn biết đâu là cao sâu.
Tân Ba từ vượt con
tàu,
Mới hay vũ trụ một màu bao la.
Giật mình khi ở xó
nhà,
Văn chương chữ nghĩa khéo là
trò chơi.
4. -Trong khi họ có tinh thần đùm bọc, thương yêu
giúp đỡ lẫn nhau, thì ta lại chỉ quen thói giành giật, lừa đảo nhau
vì lợi.
5. -Trong khi họ bỏ vốn lớn, giữ vững chữ tín trong kinh
doanh làm cho tiền bạc lưu thông, đất nước ngày càng giàu có; thì ta
quen thói bất nhân, bất tín, cho vay cắt cổ, ăn quỵt vỗ nợ, để tiền
bạc đất đai trở thành vô dụng. (
Phan Châu Trinh còn nói nhẹ đi. Dân ta còn lừa đảo và bất tín cả với
thần thánh. Tục ngữ có câu “Giả lễ bà chúa Mường” –có lẽ xuất phát
từ việc những con buôn đi làm ăn cầu khấn với “Ông Hoàng Mười, hay
Cô Bơ” cho buôn may bán đắt; nhưng rồi quên lời hứa tạ lễ hậu hĩ, mà
chỉ cúng cho lấy có; Những chuyện dân thường kể về nhân vật Trạng
Quỳnh, chỉ bày tỏ một lối khôn vặt, bất nhân, bất nghĩa, lưu manh.
Điển hình như chuyện Trạng Quỳnh thuê đất, vay mượn của Bà Chúa Liễu
Hạnh rồi quỵt, lại còn chửi tục hạ cấp với thần thánh.)(*).
6. - Trong khi họ biết tiết kiệm tang lễ, cư xử hợp
nghĩa với người chết, thì ta lo làm ma chay cho lớn, đến nỗi nhiều
gia đình bán hết ruộng, hết trâu.
7. -Trong khi họ ra sức cải tiến phát minh, máy móc càng
ngày càng tinh xảo; thì ta đầu óc thủ cựu, ếch ngồi đáy giếng, không
có gan đua chen thực nghiệp.
8. - Trong khi họ giỏi tổ chức công việc, sắp xếp giờ
nghỉ giờ làm; thì ta chỉ biết chơi bời, rượu chè cờ bạc, bỏ bê công
việc.
(Nhận xét này của PCT có tính cách tiên tri cho dân Việt ở thời Xã
hội chủ nghĩa hiện đại, qua đó người ta thấy rõ khả năng yếu kém về
quản lý kinh tế, xã hội của Cộng Sản.)
9. - Trong khi họ biết gắng gỏi tự lực tự cường, tin
ở bản thân, thì ta chỉ mê tín nơi mồ mả, tướng số, việc gì cũng cầu
Trời khẩn Phật.
10. - Trong khi họ làm việc “quan”cốt ích nước lợi dân,
đúng là “đầy tớ” của dân, được dân tín nhiệm, thì ta lo xoay xở chức
quan để no ấm gia đình, vênh vang hoang phí, vơ vét áp bức dân chúng.
(Ở Việt Nam ngày nay chỉ khác có một chữ “quan” là “cán bộ” mà thôi.)
Do đấy vấn đề chính vẫn là văn hoá. Mà văn hoá thì chỉ
còn dạy dân để mà nâng cao văn hoá của họ. Dân đây là toàn thể mọi
người không phân biệt giai cấp. Có lẽ chương trình duy tân của Phan
Bội Châu bước đầu là do gợi ý của Lương Khải Siêu: “Muốn giải
phóng mình, nước ông phải làm sao cho có thực lực. Thực lực là dân
trí, dân khí và nhân tài. Còn sự viện trợ về vũ khí, về mặt quân sự
thì không khó lắm. Nhưng có viện trợ mà không có thực lực, thì không
chắc chắn đâu”(2)
Trong thời gian ở trên đất Nhật, tiếp xúc với mọi tầng
lớp dân chúng, vấn đề dân trí càng nổi lên thành mối ưu tư cho những
nhà cách mạng Duy tân VN. Vấn đề Phan Bội Châu nhìn đúng, nhưng khả
năng thực hiện lại kém. Muốn chấn hung dân khí, mở mang dân trí phải
cần đến một chương trình giáo dục để thay đổi nếp sống văn hoá lạc
hậu cũ. Khi dân trí còn quá thấp, thì chẳng thể có một chương trình
duy tân nào thực hiện được. Đó là lý do mọi đề nghị cải cách của
Nguyễn Trường Tộ đều vấp phải bức tường bảo thủ của văn hoá cũ. Cho
dù ở triều đình có thiện chí áp dụng chương trình cải cách, cũng khó
lòng mà thực hiện với một đại chúng nhân dân thấp kém, hủ lậu, bạc
nhược được.
Trong chuyến đi du lịch Nhật Bản vừa rồi, điều đập vào
mắt tôi là tinh thần kỷ luật và trách nhiệm của người dân Nhật.
Trách nhiệm thì báo chí đều đã đăng tải nhiều. Chỉ đơn cử một việc
người tài xế taxi có trách nhiệm với khách là làm tròn trách nhiệm
đúng với số tiền thù lao mà khách đi xe phải trả, không hề thấy có
một kỳ kèo nào của chủ và khách cả. Dù sao tinh thần trách nhiệm còn
trải rộng, khó quan sát hết được. Chỉ riêng tinh thần kỷ luật là dễ
dàng nhận thấy nơi sinh hoạt của cộng đồng trong xã hội. Điều đập
vào mắt tôi là trật tự ở nhà ga, dù là rất đông, nhưng không có ai
chen nhau để đi trước. Có lẽ vì thời gian đã được sắp xếp đúng
chương trình, nên không ai thấy mình phải vội vã hơn người khác, để
làm mất trật tự của đám đông di chuyển. Điều này cho người ta tin là
thật, câu chuyện khiến cả thế giới khâm phục là trong trận sóng thần
năm 2011 người Nhật cũng rất trật tự để di tản.
Vấn đề là làm sao để người dân có tinh thần trật tự và
cách mạng? Không có ai sinh ra đã hội đủ tinh thần để sống hoà hợp
trong xã hội. Chỉ có giáo dục mới tạo nên được con người xã hội. May
mắn cho nước Nhật là sống riêng rẽ trong một quần đảo, tuy có ảnh
hưởng văn hoá Trung Hoa, nhưng vẫn duy trì được văn hoá bản địa, nên
tạo được sắc thái Nhật Bản.
Những người Nhật duy tân đã hiểu rất rõ nhu cầu giáo dục
cho công cuộc đổi mới, và họ đã định được mục đích của giáo dục để
đào tạo một con người sống trong một xã hội nhân bản. Mẫu mực nhân
bản ấy họ đã thấy được ở tinh thần dân chủ Tây phương như Anh, Pháp,
Mỹ.
Cái đại bất hạnh cho Việt Nam chúng ta (Mặc dầu cụ Phan
Châu Trinh đã báo động và cảnh cáo Nguyễn Tất Thành là “tư tưởng
Cộng sản do Lénin đem áp dụng ở Nga; kể cả Phan Bội Châu khi tiếp
xúc với Đại sứ Nga ở Bắc Kinh với ý định đưa người sang Nga học,
cũng đã mau lẹ nhận ra quan niệm xây dựng xã hội của Cộng Sản là
không dùng được, nên cắt đứt quan hệ (3)), là những người Cộng Sản
đã đem áp dụng một cách nô lệ cái gọi là “văn hoá Marxist-Leninist”
cho dân tộc Việt Nam. Đúng như Nguyễn Mạnh Tường đã cay đắng nhận
xét về cuối đời của mình:”... Phải công nhận là nền giáo dục Cộng
Sản đã thành công, thuyết phục được những người, dường như đầu óc
vẫn minh mẫn, nhưng lại không tin vào những gì mắt thấy tai nghe, mà
ngược lại còn tôn xưng tôn chỉ của Đảng, để tăng thêm niềm tin vào
những gì Đảng quyết định và ra lệnh như kẻ duy nhất nắm giữ sự thật
và là nhà tiên tri Phúc âm Marxist-Leninist. Loại cuồng tín biến sự
đa dạng thành ro-bot, biến con người thành những cỗ máy chỉ biết cử
động khi có lệnh đến từ bên ngoài thật sự làm những cái đầu biết suy
nghĩ lo ngại.”(4)
Tiếng bình dân gọi là “bỏ bùa mê thuốc lú” khiến người
ta không còn phân biệt phải trái hay dở nữa. Thực tế thì có rất
nhiều trí thức đã tuyên truyền không công, cổ vũ cái “Thiên đường
Cộng sản” ấy; nhưng còn chính mình thi không dám tới Nga để sống thử
trong Thiên đường. Ta cũng không thể loại trừ tính thơ ngây hay cũng
có thể gọi là ấu trĩ của trí thức đã góp công nhiều cho tổ chức lãnh
đạo lưu manh để đào tạo ra quần chúng Cộng sản. Việc tự giáo dục và
giáo dục quần chúng làm nên vai trò cần thiết của trí thức trong
việc cải thiệnxã hội. Một nền giáo dục đúng và tốt là nền tảng của
văn hoá nhân bản dẫn đến chế độ dân chủ pháp trị hoàn hảo.
Sở dĩ giáo dục Cộng sản thành công, một phần cũng là do
công lao của những trí thức có lẽ “ăn phải bùa mê thuốc lú” này, mà
tiêu biểu đáng được vinh danh là Đào Duy Anh và Đặng Thai Mai. Công
lao đưa chủ nghĩa Cộng Sản vào Việt Nam về phương diện ý thức hệ
phải kể đến hai vị này; còn Hồ Chí Minh chỉ là người hành động đã
tạo cơ hội cho ý thức này phát triển.
Hiện tượng ù lỳ về trí thức và thụ động về hành động là
một hiện tượng có thật và phổ quát trong xã hội Cộng Sản Việt Nam
hiện tại, theo nhận xét của Nguyễn Mạnh Tường: “Tại sao giờ đây
họ như đã chết, không còn sinh khí, bất động trong sự thờ ơ? Tại sao
họ chịu đựng ngồi khóc một cách thụ động, hay có thể khóc vì tuyệt
vọng như thế? Họ không tin mình còn sức gì trong trí óc và hai cánh
tay nữa? Họ, những người đã viết nên những trang sử rực rỡ.
Tôi không thể thấy cái gì ngao ngán hơn cảnh sáu mươi
triệu người trôi dật dờ không chút nghị lực như những xác người trên
biển cả. Họ đã bị lừa bịp, phỉnh gạt, phản bội và điều không thể
hiểu nổi là người ta chỉ biết kêu than đói khổ trong khi tài nguyên
thiên nhiên đầy dãy và đang chờ khai thác.” (5)
Cũng thì là trật tự trong mọi hành động, người ta không
thấy người Nhật dành nhau mua vé đi xe lửa; cũng chẳng thấy có cảnh
người sắp hàng để bán chỗ cho những ai cần đi trước. Theo lời tác
giả Nguyễn Mạnh Tường thì quả thật người Việt Nam đã rất trật tự “như
những xác người trôi trên biển cả”.
Trên đây là chuyện NMT nói hồi thập niên 90. Bây giờ thì
dân khí càng xuống thấp. Hãy cứ so sánh dân Việt trong thời Pháp
thuộc, khi cụ Phan Bội Châu bị tòa án Thực dân Pháp tuyên án tử
hình, thì cả nước “xuống đường, từ học sinh tiểu học cũng bãi khoá
để đấu tranh, khiến Thực dân phải hủy án tử hình, nhưng cô lập cụ ở
Huế. Những năm 60 của thế kỷ 20 trong chế độ VNCH, Phật giáo hăng
thế, học sinh, sinh viên Phật tử hăng thế, theo lệnh thầy xuống
đường đấu tranh không sợ tù đầy. Thế mà bây giờ chính quyền ngang
ngược đàn áp nhân dân, công an đánh chết người rồi vu cho là tự tử;
sinh viên tranh đấu biểu tình chống Tàu Cộng xâm lấn biển đảo, cướp
ngư trường của dân đánh cá VN, bị “Nhà nước nhân dân” ngang ngược bỏ
tù, mà học sinh, sinh viên nín khe. Thế mà kéo nhau cả vạn người đi
đón một ca sĩ Đại Hàn đến Saigon biểu diễn. Nhân dân khắp nơi chỉ lo
kiếm miếng cơm. Nhất là từng lớp trí thức là những người tốt nghiệp
Đại học và hậu Đại học (kể cả những người mua bằng) vẫn ngoan ngoãn
“không nghe, không nghĩ, không nói, mà lãnh đồng lương chết đói
của chính quyền Cộng Sản.”
Sở dĩ những năm 60 mà nhân dân xuống đường, nhất là Phật
giáo là vì có lãnh đạo tổ chức… Giả sử không có Thích Trí Quang cùng
một số đại đức, thượng tọa tổ chức tranh đấu, thì chưa chắc đã có
cuộc sụp đổ của Chính phủ Ngô Đình Diệm, dù người Mỹ có nhúng tay
vào.
Một điều nữa là dân khí ở miền Nam hồi trước vẫn còn tồn
tại, dù phải sống trong chế độ Thực dân; hay vừa mới được tự do ít
năm, nó càng nói lên tầm mức quan trọng của giáo dục. Cái giáo dục
thời Thực dân, hay thời VNCH, dù chưa được hoàn hảo, nhưng cũng vẫn
là ước mơ của ông NMT sống trong chế độ Cộng Sản VN: “Giáo dục
phải dạy về những giá trị, lòng trung thực và sự biết tôn trọng. Mục
tiêu của giáo dục nhằm dạy cho con người nên người. Nên người là cái
mục đích duy nhất và tối hậu của giáo dục. Vì vậy muốn xứng đáng
mang danh “nên người”, phải được tô điểm bằng những đạo đức -chỉ
riêng chúng-đã nâng cao và tán dương nhân tính con người. Trường học
dạy nguyên tắc, đạo đức ứng dụng trong gia đình và ngoài xã hội.”(6)
Cộng Sản đã dùng giáo dục để làm cho quần chúng của họ
thành một cộng đồng sinh vật phản xạ có điều kiện (*). Cái cộng đồng
ấy lúc phải dùng cho chiến tranh thì húc đầu vào nguy hiểm như “con
trâu Điền Đan” thì mới có ăn; Lúc thời bình thì chỉ biết chờ chủ
khiển dụng mà “sáng tai họ điếc tai cầy”. Đó cũng là thứ giáo dục
nhằm mục đích nô lệ hoá con người: “Con người sẽ trở nên loại
người mà trường học muốn tạo ra. Thứ giáo dục kiểu Spartan (*) chỉ
dành cho việc đào tạo những người lính, đẩy tuổi trẻ vào cái cối xay
người đen tối và những bài tập quân sự.”(7)
Chẳng gì rõ hơn cứ nghe trẻ con phải đọc kinh nhật tụng
“Năm điều Bác Hồ dạy thiếu nhi” thì thấy chủ trương tạo nên cộng
đồng sinh vật này:
Yêu tổ quốc, yêu
đồng bào
Học tập tốt, lao
động tốt.
Đoàn kết tốt, kỷ
luật tốt.
Giữ gìn vệ sinh thật
tốt.
Khiêm tốn, thật thà,
dũng cảm.
Nếu chỉ nhìn vào mặt nổi của những điều gọi là “Bác Hồ dạy thiếu
nhi”, người ta cũng thấy thiện chí của giáo dục. Nhưng bản chất của
Cộng Sản là dối trá, nên không bao giờ họ thi hành những điều họ
nói. Nói là thật thà, nhưng mọi hành vi đều là dối trá; nói là khiêm
tốn, nhưng luôn luôn “một tấc đến trời”. Đứa bé được trui rèn để
không còn yêu cha mẹ gia đình, anh em nữa, mà chỉ yêu đoàn thể. Cái
lầm của sự xây dựng văn hoá Cộng Sản là không đặt trên căn bản cá
nhân, mà là tập thể chỉ có lý trí và bản năng. Chưa có một nền giáo
dục nào, một triết lý giáo dục nào khinh miệt con người đến thế.
Đoàn thể đó không có chỗ phát triển cho cá nhân, nên mọi hoạt động
đều phải do lãnh đạo. Người ta chỉ có tự do khi ý thức được trách
nhiệm và hành động của mình. Giáo dục Cộng Sản thủ tiêu tự do để cho
quần chúng mất hết tinh thần tự chủ, dù rằng Cộng Sản vẫn nói tới
“tinh thần làm chủ” một cách bịp bợm để nâng cao năng xuất lao động.
Một đằng nô lệ hoá trí thức, để người dân không còn ý thức được điều
gì ngoài lãnh đạo rao giảng; Một đằng nô lệ hoá nhu cầu hạ đẳng của
con người, khiến người dân chỉ còn trông chờ miếng cơm manh áo nơi
Đảng ban cho. Có như thế mới dễ dàng cho Đảng sai khiến. Người dân
chỉ biết có Đảng, vâng lời Đảng. Không phải vì có tinh thần giác ngộ
cách mạng, mà chỉ vì những lợi ích thiết thân.
Có lẽ cần phải xem lại nhận xét của một nhà báo người
Pháp từng viết bài ca tụng dân tộc Việt Nam thời chiến thắng Đ.B.P.
, vừa rồi quay lại Việt Nam đã viết: “Giờ đây sự ngu dốt và bất
tài đã được dối trá và ích kỷ xông vào nhập cuộc”(8) Việc làm
nên chiến thắng Đ.B.P. nếu đừng kể công lao của Trung Quốc góp vào
(*) thì sự hăng say chiến đấu đó phát huy từ lòng yêu nước tiềm tàng
của dân tộc V. N. vốn có từ lâu, và đó cũng là điều mà sau này giáo
dục Cộng Sản tiêu diệt nó để thay thế bằng tinh thần Quốc tế vô sản.
Đừng đánh giá những người lãnh đạo Đảng ngày nay là ngu dốt và bất
tài; Họ thực sự là những người ích kỷ, dối trá và rất có khả năng
trong sự lừa bịp và bạo lực của họ.
Những người cầm quyền hiện tại củng cố giai cấp của họ
để theo chính sách “cha truyền con nối”: Một đằng họ đẩy trí thức ra
ngoài rìa xã hội, khiến những trí thức này lâm cảnh cực khổ phải làm
công việc hạ đẳng, nếu không thì với thu nhập thường càng khiến họ
đau đớn với thân phận bị tước bỏ chức năng cao quý mà họ đã đầu tư
cả đời người. Một đằng họ gửi con cái đi du học nước ngoài (không
cần học thật), chỉ cần có cái “mác” học ở nước ngoài, nhất là Tây
phương để ngày nào đó sẽ quay về VN, thay chỗ, thay quyền cho họ
trong các chức vụ cao một cách danh chính ngôn thuận.
Sự sai lầm trong việc đặt nền tảng cho văn hoá, mà bước
quyết định là giáo dục, không thể thấy kết quả nhãn tiền như đối với
chính trị. Thí dụ một ý tưởng rồ dại về đấu tranh giai cấp, khi đem
ra thi hành đã đem lại kết quả chớp nhoáng là cả nửa triệu người bỏ
mạng tức tưởi. Nhưng hậu quả văn hoá Marxist-Leninist thì phải nhiều
chục năm sau mới phát tác cái tệ hại của nó, để muốn thay đổi nó
cũng phải cần có thời gian lâu dài vài ba thế hệ, với điều kiện là
có ý thức và quyết định để thay đổi nó không.
Cũng phải nói đến nỗi oan khiên của lịch sử, đã đặt nước
Việt Nam luôn luôn vào hoàn cảnh “trễ tàu”. Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh cùng một tập thể nhà nho muốn duy tân, kể cả vua Tự Đức (*),
nhưng hoàn cảnh lịch sử đã đổi khác rồi, không còn may mắn như Nhật
Bản đã quyết định đổi mới đúng lúc nền văn hoá của mình.
Lê
văn Ngọc
21-6-2013 –
http://vietluanonline.com/210613/BaogioTokyobangduocHanoi.html
_______________________________________________________
Chú thích:
(1)
Vũ Ngọc Khánh – Sào Nam thiên cổ sự
- trg 120
(*) Những người nghiên cứu văn học của Cộng Sản rất
đề cao trò lưu manh này của nhân vật Trạng Quỳnh, coi đó như là hình
thức chống Phong kiến.
(2) Vũ Ngọc Khánh – Sào Nam Thiên cổ sự - trg 122
(3) Phan Bội Châu niên biểu
(4)Nguyễn Mạnh Tường - Kẻ bị khai trừ -trg 270
(5) nt trg 271-272
(6) nt - trg 273
(*) Chú thích của sách K. B. K. T.: Giáo dục kiểu
Spartan: giáo dục lòng can đảm, sự anh dũng, bền bỉ, khắc khổ, có ý
thức kỷ luật cao, chiến đấu giỏi.
(7) Hồ Chí Minh đã dạy các “đồ đệ” bằng cách nuôi cá
trong “ao cá của Bác”, mỗi khi cho cá ăn lại vỗ tay. Sau cá thành
quen, thấy bóng người và vỗ tay là nổi lên chờ mồi. Các “cung văn”
Cộng Sản Việt Nam tán rằnglòng yêu thương của Bác cảm đến cả loài
vật. Sự thực, Bác chỉ áp dụng phương pháp “con chó Pavlov “của Nga
mà thôi.
(8) Nguyễn Mạnh Tường – K. B. K. T. – trg 278
(*) Trong thực tế, nhà vua cũng đã thi hành một số
cải cách trong các lĩnh vực kinh tế (như mở các mỏ than, sắt; định
ngạch thuế trong thương mại, lập ty Bình chuẩn trông coi việc buôn
bán; mua sắm vũ khí, dịch tài liệu quân sự nước ngoài, đưa người ra
nước ngoài học tập, giao lưu với một số nước... ( Lịch sử nhà Nguyễn
- Một cách tiếp cận mới – trg 120
(*) Những tin tức hé lộ mới đây cho biết chính Vi
Quốc Thanh mới là người lên kế hoạch chỉ đạo chiến dịch Đ. B. P. V.
N. Giáp chỉ là đứng tên để che mắt Mỹ. Võ khí tối tân, kể cả dàn hỏa
tiễn gọi là “đại phong cầm Staline do Liên Xô tuồn sang để Trung
Cộng đưa cho Việt Nam trong chiến dịch này.
No comments:
Post a Comment