NỀN GIÁO DỤC CỦA CHẾ ĐỘ VIỆT NAM CỘNG HÒA – Sự tiếc nuối vô bờ bến
Giáo dục Việt Nam Cộng hòa là nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa là nhân bản, dân tộc, và khai phóng. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và cho rằng “nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí”, “nền giáo dục đại học được tự trị”, và “những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn”.
Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng hòa gồm tiểu học, trung học, và đại
học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư
thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới
địa phương.
Ảnh Phòng thí nghiệm ở Viện Pasteur Sài Gòn (Internet)
Từ năm 1917, chính quyền thuộc địa Pháp ở
Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam,
Trung, Bắc, và cả Lào cùng Campuchia. Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc
có ba bậc: tiểu học, trung học, và đại học. Chương trình học là chương
trình của Pháp, với một chút sửa đổi nhỏ áp dụng cho các cơ sở giáo dục ở
Việt Nam, dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính, tiếng Việt chỉ là ngôn
ngữ phụ. Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập vào năm 1945, chương trình
học của Việt Nam – còn gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn (ban hành thời
chính phủ Trần Trọng Kim - được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền
Bắc. Riêng ở miền Nam, vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình
Pháp vẫn còn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ Nhất Cộng
Hòa thì chương trình Việt mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho
chương trình Pháp. Cũng từ đây, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới
có cơ hội đóng vai trò lãnh đạo thực sự của mình.
Ngay từ những ngày đầu hình thành nền Đệ
Nhất Cộng Hòa, những người làm công tác giáo dục ở miền Nam đã xây dựng
được nền móng quan trọng cho nền giáo dục quốc gia, tìm ra câu trả lời
cho những vấn đề giáo dục cốt yếu. Những vấn đề đó là: triết lý giáo
dục, mục tiêu giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo khoa và phương
tiện học tập, vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết bị
trường học, đánh giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị. Nhìn chung,
người ta thấy mô hình giáo dục ở Miền Nam Việt Nam trong những năm 1970
có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng đào tạo một số
ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về lý thuyết, để
chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng và thực tiễn.
Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng Hòa có một phần năm (20%) dân số là học
sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục. Con số này bao
gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trung học, và
101.454 sinh viên đại học; số người biết đọc biết viết ước tính khoảng
70% dân số. Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện đại học ở
miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên theo học ở
Học viện Hành Chính Quốc Gia và ở các trường đại học cộng đồng).
Mặc dù tồn tại chỉ trong 20 năm (từ 1955
đến 1975), bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh và những bất ổn chính
trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc
gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành
cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo dục),
nền giáo dục Việt Nam Cộng
Hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng
của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn và có khả năng
chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp
vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển. Kết
quả này có được là nhờ các nhà giáo có ý thức rõ ràng về sứ mạng giáo
dục, có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc sống
khiêm nhường để đóng góp trọn vẹn cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc phụ
huynh đã đóng góp công sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia, và
nhờ những nhà lãnh đạo giáo dục đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ
lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở Miền Nam Việt Nam
Triết lý giáo dục
Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc
gia Giáo dục Trần Hựu Thế, Việt Nam Cộng Hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục
Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học
sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền và
các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ
tiểu học đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật… Ba nguyên tắc “nhân bản” (humanistic), “dân tộc” (nationalistic), và “khai phóng”
được chính thức hóa ở hội nghị này. Đây là những nguyên tắc làm nền
tảng cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa, được ghi cụ thể trong
tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa (1967).
1. Giáo dục Việt Nam là giáo dục nhân bản. Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy
con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm
căn bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương
tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay
tổ chức nào khác. Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt
giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để
đánh giá con người, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu
nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc… Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.
2. Giáo dục Việt Nam là giáo dục dân tộc.
Giáo dục tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt
liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn
và phát huy được những tinh hoa hay những truyền thống tốt đẹp của văn
hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thế hệ biết
đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong những
nền văn hóa khác.
3. Giáo dục Việt Nam là giáo dục khai phóng.
Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải
đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức
khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ,
phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện
đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh
thế giới.
Từ những nguyên tắc căn bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đề ra những mục tiêu chính sau đây
cho nền giáo dục của mình. Những mục tiêu này được đề ra là để nhằm trả
lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo dục, những người đi học sẽ
trở nên người như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, quốc
gia, xã hội, và nhân loại.
1. Phát triển toàn diện mỗi cá nhân.
Trong tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh,
giáo dục hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính
tự nhiên của mỗi người và theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về
thể chất lẫn tâm lý. Nhân cách và khả năng riêng của học sinh được lưu ý
đúng mức. Cung cấp cho học sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh
phán đoán, lựa chọn; không che giấu thông tin hay chỉ cung cấp những
thông tin chọn lọc thiếu trung thực theo một chủ trương, hướng đi định
sẵn nào.
2. Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh.
Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội,
môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết
lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết,
tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp
học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp
học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong
phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học
sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của
quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.
3. Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học.
Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh tổ chức những nhóm làm việc
độc lập qua đó phát triển tinh thần cộng đồng và ý thức tập thể; giúp
học sinh phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệm và kỷ luật;
giúp phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp học sinh có khả
năng tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhân loại
Ảnh Mặt tiền của Viện Đại Học Sài Gòn (Số 3 Công Trường chiến sĩ)
Giáo dục tiểu học
Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao
gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ Nhất Cộng Hòa gọi là lớp Năm
đến lớp Nhất). Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo
dục phổ cập (bắt buộc). Từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa đã có luật quy định trẻ
em phải đi học ít nhất ba năm tiểu học. Mỗi năm học sinh phải thi để
lên lớp. Ai thi trượt phải học “đúp”, tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định,
một ngày được chia ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều.
Vào đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng Hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu
học, chiếm hơn 80% tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi; 5.208 trường
tiểu học (chưa kể các cơ sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long và Sa Đéc).
Tất cả trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận
vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học. Phụ huynh có thể chọn lựa cho con
em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu học trong các trường công lập hay
tốn học phí (tùy trường) tại các trường tiểu học tư thục. Lớp 1 (trước
năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5
giờ môn quốc văn; 2 giờ bổn phận công dân và đức dục (còn gọi là lớp
Công dân giáo dục). Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư), quốc văn giảm
còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ sử ký và địa lý. Lớp 3 trở lên thì ba môn
quốc văn, công dân và sử địa chiếm 12-13 tiếng mỗi tuần. Một năm học kéo
dài chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có khoảng 10 ngày nghỉ
lễ (thông thường vào những ngày áp Tết).
Giáo dục trung học
Tính đến đầu những năm 1970, Việt Nam
Cộng hòa có hơn 550.000 học sinh trung học, tức hơn 20% tổng số thanh
thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18; có 534 trường trung học (chưa kể các
cơ sở ở Vĩnh Long và Sa Đéc). Đến năm 1975 thì có khoảng 900.000 học
sinh ở các trường trung học công lập. Các trường trung học công lập nổi
tiếng thời đó có Petrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trưng Vương, Gia
Long, Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền thân là Trường Chasseloup Laubat, Đồng Khánh, Quốc
Học (Huế), Trường Trung học Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Nguyễn Đình Chiểu
(Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)… Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
Trung học đệ nhất cấp
Trung học đệ nhất cấp bao gồm từ lớp 6
đến lớp 9 (trước năm 1971 gọi là lớp đệ thất đến đệ tứ), tương đương
trung học cơ sở hiện nay. Từ tiểu học phải thi vào trung học đệ nhất
cấp. Đậu vào trường trung học công lập không dễ . Các trường trung học
công lập hàng năm đều tổ chức tuyển sinh vào lớp Đệ thất (từ năm 1971
gọi là lớp 6), kỳ thi có tính chọn lọc khá cao (tỷ số chung toàn quốc
vào trường công khoảng 62%); tại một số trường danh tiếng tỷ lệ trúng
tuyển thấp hơn 10%. Những học sinh không vào được trường công thì có thể
nhập học trường tư thục nhưng phải trả học phí. Một năm học được chia
thành hai “lục cá nguyệt” (hay “học kỳ”). Kể từ lớp 6, học sinh bắt đầu
phải học ngoại ngữ, thường là tiếng Anh hay tiếng Pháp, môn Công dân
giáo dục tiếp tục với lượng 2 giờ mỗi tuần. Từ năm 1966 trở đi, môn võ
Vovinam (tức Việt Võ đạo) cũng được đưa vào giảng dạy ở một số trường.
Học xong năm lớp 9 thì thi bằng Trung học đệ nhất cấp. Kỳ thi
này thoạt tiên có hai phần: viết và vấn đáp. Năm 1959 bỏ phần vấn đáp
rồi đến niên học 1966-67 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ hẳn kỳ thi
Trung học đệ nhất cấp.
Trung học đệ nhị cấp
Trung học đệ nhị cấp là các lớp 10, 11
và 12, trước 1971 gọi là đệ tam, đệ nhị và đệ nhất; tương đương trung
học phổ thông hiện nay. Muốn vào thì phải đậu được bằng Trung học đệ
nhất cấp, tức bằng Trung học cơ sở. Vào đệ nhị cấp, học sinh phải chọn
học theo một trong bốn ban như dự bị vào đại học. Bốn ban thường gọi A,
B, C, D theo thứ tự là Khoa học thực nghiệm hay còn gọi là ban vạn vật;
ban toán; ban văn chường và ban văn chương cổ ngữ, thường là Hán văn.
Ngoài ra học sinh cũng bắt đầu học thêm một ngoại ngữ thứ hai.Vào năm
lớp 11 thì học sinh phải thi Tú tài I rồi thi Tú tài II năm lớp 12. Thể
lệ này đến năm học 1972-1973 thì bỏ, chỉ thi một đợt tú tài phổ thông.
Thí sinh phải thi tất cả các môn học được giảng dạy (trừ môn Thể dục),
đề thi gồm các nội dung đã học, không có giới hạn hoặc bỏ bớt. Hình thức
thi kể từ năm 1974 cũng bỏ lối viết bài luận (essay) mà theo
lối thi trắc nghiệm có tính cách khách quan hơn. Mỗi năm có hai đợt thi
Tú tài tổ chức vào khoảng tháng 6 và tháng 8. Tỷ lệ đậu Tú tài I
(15-30%) và Tú tài II (30-45%), tại các trường công lập nhìn chung tỷ lệ
đậu cao hơn trường tư thục do phần lớn học sinh đã được sàng lọc qua kỳ
thi vào lớp 6 rồi. Do tỷ lệ đậu kỳ thi Tú tài khá thấp nên vào được đại
học là một chuyện khó. Thí sinh đậu được xếp thành: Hạng “tối ưu” hay
“ưu ban khen” (18/20 điểm trở lên), thí sinh đậu Tú tài II hạng tối ưu
thường hiếm, mỗi năm toàn Việt Nam Cộng hòa chỉ một vài em đậu hạng này,
có năm không có; hạng “ưu” (16/20 điểm trở lên); “bình” (14/20); “bình
thứ” (12/20), và “thứ” (10/20). Một số trường trung học chia theo phái
tính như ở Sài Gòn thì có trường Petrús Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản,
Trường Hồ Ngọc Cẩn (Gia Định) và các trường Quốc học (Huế), Phan Chu
Trinh (Đà Nẵng), Võ Tánh (Nha Trang), Trần Hưng Đạo (Đà Lạt), Nguyễn
Đình Chiểu (Mỹ Tho) dành cho nam sinh và các trường Trưng Vương, Gia
Long, Lê Văn Duyệt, Trường Nữ Trung học Đồng Khánh (Huế), Trường Nữ
Trung học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), Trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân (Mỹ
Tho), Trường Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ) chỉ dành cho nữ sinh.
Học sinh trung học lúc bấy giờ phải mặc đồng phục: nữ sinh thì áo dài
trắng, quần trắng hay đen; còn nam sinh thì mặc áo sơ mi trắng, quần màu
xanh dương.
Trung học tổng hợp
Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh: comprehensive high school) là một chương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục của triết gia John Dewey,
sau này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. Connant hệ thống hóa và
đem áp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ Giáo dục trung học tổng hợp
chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng nghiệp, đặt nặng vào các môn
tư vấn, kinh tế gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ, v.v… nhằm trang bị
cho học sinh những kiến thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh sau khi
rời trường trung học. Ở từng địa phương, phụ huynh học sinh và các nhà
giáo có thể đề nghị những môn học đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở
nơi mình sinh sống. Thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa chính phủ cho thử
nghiệm chương trình trung học tổng hợp, nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại
với nhau. Học trình này được áp dụng đầu tiên tại Trường Trung học Kiểu
mẫu Thủ Đức, sau đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho
nam sinh; 93 đường Trần Nhân Tông, Quận 10) và Sương Nguyệt Ánh (cho nữ
sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và
Chưởng Binh Lễ ở Long Xuyên.
Trung học kỹ thuật
Các trường trung học kỹ thuật nằm trong
hệ thống giáo dục kỹ thuật, kết hợp việc dạy nghề với giáo dục phổ
thông. Các học sinh trúng tuyển vào trung học kỹ thuật thường được cấp
học bổng toàn phần hay bán phần. Mỗi tuần học 42 giờ; hai môn ngoại ngữ
bắt buộc là tiếng Anh và tiếng Pháp. Các trường trung học kỹ thuật có
mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố; ví dụ, công lập thì có Trường Trung
học Kỹ thuật Cao Thắng (thành lập năm 1956; tiền thân là Trường Cơ khí Á
châu thành lập năm 1906 ở Sài Gòn; nay là Trường Cao Đảng Kỹ Thuật Cao
Thắng), Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc, Trường Trung học Kỹ thuật
Nguyễn Trường Tộ; tư thục thì có Trường Trung học Kỹ thuật Don Bosco
(do các tu sĩ Dòng Don Bosco thành lập năm 1956 ở Gia Định; nay là Trường Đại Học Công Nghiệp TPHCM
Các trường tư thục và Quốc Gia Nghĩa Tử
Các trường tư thục và Bồ đề
Ngoài hệ thống trường công lập của chính
phủ là hệ thống trường tư thục. Vào năm 1964 các trường tư thục giáo
dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh trung học. Đến niên học
1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học sinh tiểu học và 77,6%
học sinh trung học. Con số này Tính đến năm 1975, Việt Nam Cộng hòa có
khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn 1.000 trường tư thục ở cả
hai cấp tiểu học và trung học. Các trường tư thục nổi tiếng như Lasan
Taberd dành cho nam sinh; Couvent des Oiseaux, Regina Pacis (Nữ vương
Hòa bình), và Regina Mundi (Nữ vương Thế giới) dành cho nữ sinh. Bốn
trường này nằm dưới sự điều hành của Giáo Hội Công Giáo. Trường Bác ái
(Collège Fraternité) ở Chợ Quán với đa số học sinh là người Việt gốc
Hoa cũng là một tư thục có tiếng do các thương hội người Hoa bảo trợ.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất có hệ thống các trường tiểu học
và trung học Bồ Đề ở nhiều tỉnh thành, tính đến năm 1970 trên toàn quốc
có 137 trường Bồ đề, trong đó có 65 trường trung học với tổng số học
sinh là 58.466. Ngoài ra còn có một số trường do chính phủ Pháp tài trợ
như Marie Curie, Colette, và Saint-Exupéry. Kể từ năm 1956, tất cả các
trường học tại Việt Nam, bất kể trường tư hay trường do ngoại quốc tài
trợ, đều phải dạy một số giờ nhất định cho các môn quốc văn và lịch sử
Việt Nam. Chương trình học chính trong các trường tư vẫn theo chương
trình mà Bộ Quốc gia Giáo dục đã đề ra, dù có thể thêm một số giờ hoặc
môn kiến thức thêm. Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Viêt Nam tổng cộng có 1.087 trường tư thục ở miền Nam Việt Nam bị
giải thể và trở thành trường công (hầu hết mang tên mới).
Các trường Quốc Gia Nghĩa Tử
Ngoài hệ thống các trường công lập và tư
thục kể trên, Việt Nam Cộng hòa còn có hệ thống thứ ba là các trường
Quốc gia nghĩa tử. Tuy đây là trường công lập nhưng không đón nhận học
sinh bình thường mà chỉ dành riêng cho các con em của tử sĩ hoặc thương
phế binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như là một đặc ân của chính phủ
giúp đỡ không chỉ phương tiện học hành mà cả việc nuôi dưỡng. Hệ thống
này bắt đầu hoạt động từ năm 1963 ở Sài Gòn, sau khai triển thêm ở Đà
Nẵng, Cần Thơ, Huế, và Biên Hòa. Tổng cộng có 7 cơ sở với hơn 10.000 học
sinh. Loại trường này do Bộ Cựu Chiến binh quản lý chứ không phải Bộ
Quốc gia Giáo dục, nhưng vẫn dùng giáo trình của Bộ Quốc gia Giáo dục.
Chủ đích của các trường Quốc gia nghĩa tử là giáo dục phổ thông và hướng
nghiệp cho các học sinh chứ không được huấn luyện quân sự. Vì vậy
trường Quốc gia nghĩa tử khác trường Thiếu sinh quân. Sau năm 1975, các
trường quốc gia nghĩa tử cũng bị giải thể.
Giáo dục đại học
Học sinh đậu được Tú tài II thì có thể
ghi danh vào học ở một trong các viện Đại Học, trường Đại Học, và học
viện trong nước. Tuy nhiên vì số chỗ trong một số trường rất có giới hạn
nên học sinh phải dự một kỳ thi tuyển có tính chọn lọc rất cao; các
trường này thường là Y, Dược, Nha, Kỹ Thuật, Quốc gia hành chánh và Sư
Phạm. Việc tuyển chọn dựa trên khả năng của thí sinh, hoàn toàn không xét đến lý lịch gia đình.
Sinh viên học trong các cơ sở giáo dục công lập thì không phải đóng
tiền. Chỉ ở một vài trường hay phân khoa đại học thì sinh viên mới đóng
lệ phí thi vào cuối năm học. Ngoài ra, chính phủ còn có những chương
trình học bổng cho sinh viên.
Chương trình học trong các cơ sở giáo
dục đại học được chia làm ba cấp. Cấp 1 (học 4 năm): Nếu theo hướng các
ngành nhân văn, khoa học, v.v.. thì lấy bằng cử nhân (ví dụ: cử nhân Triết, cử nhân Toán…); nếu theo hướng các ngành chuyên nghiệp thì lấy bằng tốt nghiệp (ví dụ: bằng tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm, bằng tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chánh…) hay bằng kỹ sư (ví dụ: kỹ sư Điện, kỹ sư Canh nông…). Cấp 2: học thêm 1-2 năm và thi lấy bằng cao học hay tiến sĩ đệ tam cấp (tiếng Pháp: docteur de troisième cycle; tương đương thạc sĩ ngày nay). Cấp 3: học thêm 2-3 năm và làm luận án thì lấy bằng tiến sĩ (tương
đương với bằng Ph.D. của Hoa Kỳ). Riêng ngành y, vì phải có thời gian
thực tập ở bệnh viện nên sau khi học xong chương trình dự bị y khoa phải
học thêm 6 năm hay lâu hơn mới xong chương trình đại học.
Mô hình các cơ sở giáo dục đại học
Phần lớn các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam thời Việt Nam Cộng hòa được tổ chức theo mô hình viện đại học (theo Việt-Nam Tự-Điển của Hội khai trí Đức Tiến: Viện = Nơi, sở). Đây là mô hình tương tự như university của Hoa Kỳ và Tây Âu, cùng với nó là hệ thống đào tạo theo tín chỉ (tiếng Anh: credit). Mỗi viện đại học bao gồm nhiều phân khoa đại học (tiếng Anh: faculty; thường gọi tắt là phân khoa, ví dụ: Phân khoa Y, Phân khoa Sư phạm, Phân khoa Khoa học, v.v…) hoặc trường hay trường đại học (tiếng Anh: school hay college; ví dụ: Trường Đại học Nông nghiệp, Trường Đại học Kỹ thuật, v.v…). Trong mỗi phân khoa đại học hay trường đại học có các ngành (ví dụ: ngành Điện tử, ngành Công chánh, v.v…); về mặt tổ chức, mỗi ngành tương ứng với một ban (tiếng Anh: department; tương đương với đơn vị khoa hiện nay).
Về mặt tổ chức, viện đại học của Việt
Nam Cộng hòa duy trì đường lối phi chính trị của các đại học Tây Phương.
Các khoa trưởng của các trường phân khoa khong do Bộ Quốc gia Giáo dục
bổ nhiệm mà do các giáo sư của Hội đồng Khoa bầu lên.
Trong hai thập niên 1960 và 1970, lúc
hội nghị Hòa Bình đang diễn ra ở Paris, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ráo
riết lên kế hoạch tái thiết sau chiến tranh, với viễn cảnh là hòa bình
sẽ lập lại ở Việt Nam, một chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập, người
lính từ các bên trở về cần được đào tạo để tái hòa nhập vào xã hội.
Trong khuôn khổ kế hoạch đó, có hai mô hình cơ sở giáo dục đại học mới
và mang tính thực tiễn được hình thành, đó là trường đại học cộng đồng và viện đại học bách khoa.
Trường đại học cộng đồng là một cơ sở
giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành; sinh viên học ở đây để chuyển tiếp
lên học ở các viện đại học lớn, hoặc mở mang kiến thức, hoặc học nghề để
ra làm việc. Các trường đại học cộng đồng được thành lập với sự tham
gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu
phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa, xã hội, và kinh tế. Khởi
điểm của mô hình giáo dục này là một nghiên cứucủa ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào một luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Southern California vào năm 1970 với tựa đề The Community College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam
(Khái niệm trường đại học cộng đồng: Nghiên cứu sự phù hợp của nó với
công cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam). Cơ sở đầu tiên được hình
thành là Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang, thành lập vào năm1971 ở
Định Tường sau khi mô hình giáo dục mới này được mang đi trình bày sâu
rộng trong dân chúng.
Vào năm 1973, Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức (tên tiếng Anh: Thủ Đức Polytechnic University, gọi tắt là Thủ Đức Poly)
được thành lập. Đây là một cơ sở giáo dục đại học đa ngành, đa lĩnh
vực, và chú trọng đến các ngành thực tiễn. Trong thời gian đầu, Viện Đại
học Bách khoa Thủ Đức có các trường đại học chuyên về Nộng Nghiệp, Kỹ
Thuật, Giáo Dục, Khoa Học và Nhân Văn, Kinh tế và Quản trị, và Thiết kế
đô thị; ngoài ra còn có trường đào tạo sau đại học. Theo kế hoạch, các
cơ sở giáo dục đều được gom chung lại trong một khuôn viên rộng lớn, tạo
một môi trường gợi hứng cho trí thức suy luận, với một cảnh trí được
thiết kế nhằm nâng cao óc sáng tạo; quản lý hành chính tập trung để tăng
hiệu năng và giảm chi phí.
Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hoà xã
hội Chủ Nghĩa Việt Nam, toàn bộ các cơ sở giáo dục đại học thời Việt
Nam Cộng hòa bị đổi tên và bị phân tán theo khuôn mẫu giáo dục của Liên
Xô nên không còn mô hình theo đó các trường hay phân khoa đại học cấu
thành viện đại học, mà mỗi trường trở nên biệt lập. Giáo dục đại học
Việt Nam dưới các chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình phân tán ngành học. Các “trường đại học
bách khoa” được thành lập dưới hai chính thể này ( Trường Đại Học Bách
Khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách Khoa TPHCM, và Trường Đại Học Bách Khoa
Đà Nẵng) không giống như mô hình viện đại học bách khoa vì chỉ
tập trung vào các ngành kỹ thuật Tương tự, mô hình “trường đại học tổng
hợp” (Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội, Trường Đại Học Tổng Hợp TPHCM và
Trường Đại Học Tổng Hợp Huế) cũng chỉ tập trung vào các ngành khoa
học cơ bản, chứ không mang tính chất toàn diện. Đến đầu thập niên 1990,
chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mới thành lập 2 “đại học”
cấp quốc gia và 3 “đại học” cấp vùng theo mô hình gần giống như mô hình viện đại học.
Vào tháng 10 năm 2009, một số đại biểu của Quốc Hội nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam đưa ra đề nghị gọi tên các “đại học” cấp quốc gia
và cấp vùng là “viện đại học”.
Các viện đại học công lập
Viện Đại Học Sài Gòn:
Tiền thân là Viện Đại Học Đông Dương (1906), rồi Viện Đại Học Quốc Gia
Việt Nam (1955) – còn có tên là Viện Đại học Quốc gia Sài Gòn. Năm 1957,
Viện Đại học Quốc Gia Việt Nam đổi tên thành Viện Đại học Sài Gòn. Đây
là viện đại học lớn nhất nước. Trước năm 1964, tiếng Việt lẫn tiếng Pháp
được dùng để giảng dạy ở bậc đại học, nhưng sau đó thì chỉ dùng tiếng
Việt mà thôi theo chính sách ngôn ngữ theo đuổi từ năm 1955. Riêng
Trường Đại Học Y Khoa dùng cả tiếng Anh. Vào thời điểm năm 1970, hơn 70%
sinh viên đại học trên toàn quốc ghi danh học ở Viện Đại học Sài Gòn.
Viện Đại Học Huế: Thành lập vào tháng 3 năm 1957 với 5 phân khoa đại học: Khoa học, Luật, Sư phạm, Văn khoa, và Y khoa.
Viện Đại Học Cần Thơ: Thành lập năm 1966 với 4 phân khoa đại học: Khoa học, Luật khoa & Khoa học Xã hội, Sư phạm, và Văn khoa.
Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức: Thành lập năm 1974. Tiền thân là Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật (1957), Học viện Quốc gia Kỹ thuật (1972).
Các viện đại học tư thục
Viện Đại Học Đà Lạt: Thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1957. Một phần cơ sở của Viện Đại học Đà Lạt nguyên là một chủng viện của Giáo hội Công Giáo. Viện đại học này có 4 phân khoa đại học: Chính trị Kinh doanh, Khoa học, Sư phạm, Thần học và Văn khoa. Theo ước tính, từ năm 1957 đến 1975 viện đại học này đã giáo dục 26.551 người.
Viện Đại Học Vạn Hạnh: Thuộc khối Ấn Quang
của Giáo hội phật giáo hội Việt Nam Thống Nhất; thành lập ngày 17 tháng
10 năm 1964 ở số 222 đường Trương Minh Giảng (sau 1975 là đường Lê Văn
Sỹ), Quận 3, Sài Gòn-Gia Định với 5 phân khoa đại học: Giáo dục, Phật
Học, Khoa Học Xã hội, Khoa học ứng dụng, và Văn học & Khoa học nhân
văn. Vào đầu thập niên 1970, Vạn Hạnh có hơn 3.000 sinh viên.
Viện Đại Học Phương Nam:
Được cấp giấy phép năm 1967 tọa lạc ở số 16 đường Trần Quốc Toản (sau
năm 1975 là đường 3 Tháng Hai), Quận 10, Sài Gòn. Viện đại học này thuộc
khối Việt Nam Quốc Tự của Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Giáo sư Lê
Kim Ngân làm viện trưởng. Viện Đại học Phương Nam có 3 phân khoa đại
học: Kinh tế-Thương mại, Ngoại ngữ, và Văn khoa. Vào thập niên 1970,
viện đại học này có khoảng 750 sinh viên ghi danh.
Viện Đại Học An Giang
(Hòa Hảo): Thành lập năm 1970 ở Long Xuyên với 5 phân khoa đại học: Văn
khoa, Thương mại-Ngân hàng, Bang giao Quốc tế, Khoa học Quản trị và Sư
phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo.
Viện Đại Học Cao Đài:
Thành lập năm 1971 trên đường Ca Bảo Đạo ở Tây Ninh với 3 phân khoa đại
học: Thần học Cao Đài, Nông lâm mục, và Sư phạm. Viện Đại học này trực
thuộc Giáo hội Cao Đài
Viện Đại Học Minh Đức:
Được cấp giấy phép năm 1972, trụ sở ở Sài Gòn với 5 phân khoa đại học:
Kỹ thuật Canh nông, Khoa học Kỹ thuật, Kinh tế Thương mại, Nhân văn Nghệ
thuật, và Y Khoa. Viện Đại học này do Giáo hội Công Giáo điều hành.
Các học viện và viện nghiên cứu
Học Viện Quốc Gia Hành Chính:
Cơ sở này được thành lập từ thời Quốc Gia Việt Nam với văn bản ký ngày
29 tháng 5 năm 1950 nhằm đào tạo nhân sự chuyên môn trong lãnh vực công
quyền như thuế vụ và ngoại giao. Trường sở đặt ở Đà Lạt; năm 1956 thì
dời về Sài Gòn đặt ở đường Alexandre de Rhodes; năm 1958 thì chuyển về
số 100 đường Trần Quốc Toản (gần góc đường Cao Thắng, sau năm 1975 là
đường 3/2), Quận 10, Sài Gòn. Học viện này trực thuộc Phủ Thủ tướng hay
Phủ Tổng thống, đến năm 1973 thì thuộc Phủ Tổng ủy Công vụ. Học viện có
chương trình hai năm cao học, chia thành ba ban cao học, đốc sự, và tham
sự.
Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp (1972-1974):
tiền thân là Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc
gia Nông nghiệp (1968-1972) rồi nhập vào Viện Đại học Bách Khoa Thủ
Đức năm 1974.
Ngoài những học viện trên, Việt Nam Cộng hòa còn duy trì một số cơ quan nghiên cứu khoa học như Viện Pasteur Sài Gòn, Viện Pasteur Đà Lạt, Viện Pasteur Nha Trang, Viện Hải dương học Nha Trang, Viện Nguyên tử lực Đà Lạt, Viện Khảo cổ v.v. với những chuyên môn đặc biệt.
Các trường đại học cộng đồng
Bắt đầu từ năm 1971 chính phủ mở một số trường đại học cộng đồng (theo mô hình community college
của Hoa Kỳ) như Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang ở Mỹ Tho, Duyên Hải
ở Nha Trang, Quảng Đà ở Đà Nẵng (1974), và Long Hồ ở Vĩnh Long. Trường
Đại học Cộng đồng Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp; Trường Đại
học Cộng đồng Duyên Hải hướng về ngư nghiệp. Riêng Trường Long Hồ còn
đang dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán. Ở
Sài Gòn thì có Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973)
dành riêng cho nữ sinh do Công Giáo thành lập, và theo triết lý đại học
cộng đồng.
Các trường kỹ thuật và huấn nghệ
Ngoài những trường đại học còn có hệ
thống trường cao đẳng như Trường Bách khoa Phú Thọ và Trường Nông lâm
súc. Một số những trường này sang thập niên 1970 được nâng lên tương
đương với cấp đại học.
Trường quốc gia Nông Lâm mục:
Thoạt tiên là Nha Khảo cứu Đông Dương thành lập năm 1930 ở B’lao, cơ sở
này đến năm 1955 thì nâng lên thành Trường Quốc gia Nông lâm mục với
chương trình học bốn năm. Diện tích vườn thực nghiệm rộng 200 ha chia
thành những khu chăn nuôi gia súc, vườn cây công nghiệp, lúa thóc.[74]
Qua từng giai đoạn Trường đổi tên thành Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc
(1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972), Học viện Quốc
gia Nông nghiệp (1972-1974). Cuối cùng Trường Quốc gia Nông lâm mục được
sáp nhập vào Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức (có trụ sở ở số 45 đường Cường Để, Quận 1, Sài Gòn). Trường còn có chi nhánh ở Huế, Cần Thơ, và Bình Dương.
Trung Tâm Kỹ Thuậc Phú Thọ:
Thành lập năm 1957 thời Đệ nhất Cộng Hoà gồm bốn trường: Trường Cao
đẳng Công chánh, Trường Cao đẳng Điện học, Trường Quốc gia Kỹ sư Công
nghệ, và Trường Việt Nam Hàng hải. Năm 1968 lập thêm Trường Cao đẳng Hóa
học. Năm 1972, Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật đổi thành Học viện Quốc gia
Kỹ thuật và đến năm 1974 thì nhập với Trường Đại học Nông nghiệp để tạo
nên Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức
Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia: Thành lập năm 1966 để đào tạo nhân viên giữ an ninh và thi hành luật pháp.
Các trường nghệ thuật
Trường Quốc gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ:
Thành lập ngày 12 tháng 4 năm 1956 dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Chương
trình học sau được bổ túc để bao gồm các bộ môn âm nhạc cổ điễn Tây
Phương và truyền thống Việt Nam cùng kịch nghệ.
Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế: Thành lập năm 1962 ở cố đô Huế chủ yếu dạy âm nhạc cổ truyền Việt Nam, dùng nhà hát Duyệt Thị Đường trong Kinh Thành Huế làm nơi giảng dạy.
Trường Quốc Gia Trang Trí Mỹ Thuật:
thành lập năm 1971, trên cơ sở nâng cấp Trường Trung học Trang trí Mỹ
thuật Gia Định (tiền thân là Trường Mỹ nghệ Gia Định, thành lập năm
1940).
Trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn:
thành lập sau năm 1954; chuyên đào tạo về nghệ thuật tạo hình với các
chương trình học 3 và 7 năm. Vị giám đốc đầu tiên là họa sĩ Lê Văn
Đệ (1954-1966).
Sinh viên du học ngoại quốc
Một số sinh viên bậc đại học được cấp
giấy phép đi du học ở nước ngoài. Hai quốc gia thu nhận nhiều sinh viên
Việt Nam vào năm 1964 là Pháp (1.522) và Hoa Kỳ (399), đa số theo học
các ngành khoa học xã hội và kỹ sư.
Sưu tầm
No comments:
Post a Comment