Cái cười mặn mòi một thuở nào nơi xứ Huế
BS LÊ VĂN LÂN
I- Cười:
Cái cười là đặc
tính của con người ( Le rire est le propre de l’homme) như lời của Henri
Bergson, triết gia Pháp! Hé miệng nhe răng chỉ là động tác của loài khỉ, nhưng
với con người thì động tác này phát khởi ra là do một tình cảm vui thích. Tự điển
Larousse đã định nghĩa một cách chính xác cái Cười của con người như sau: Rire
: Manifester un sentiment de gaité par un mouvement des lèvres, de la bouche,
accompagné de sons rapidement égrénés. ( Cười là biểu lộ một tình cảm vui bằng
sự cử động của môi, miệng đi kèm theo với những âm thanh tách biệt dồn dã).
Cái tình cảm vui
thích đã làm khởi điểm, nhưng khi con người càng tiến hóa, mức văn hóa càng cao
thì cái cười càng do nhiều nguyên nhân hay sắc thái hơn như Cười để chế nhạo
hay để khinh thường. Và động tác mỉm cười ( sourire) là nhếch môi nhẹ để bầy tỏ
sự hài lòng, sự trìu mến, sự đồng tình. Do đó, mỗi dân tộc, tùy theo tính tình
có mỗi cái cười mang màu sắc khác biệt, như cười vàng của dân Á Đông, cười lạnh
của dân Anh… và biết bao nhiêu cái cười khác như cười đen, cười đỏ, cười xám,
cười thâm … 36 cái cười lận. Chẳng hạn nói Khốc như thiếu nữ vu qui nhật, Tiếu
tự thư sinh lạc đệ thì! Cái cười của kẻ đau khổ hỏng thi là cái cười gượng gạo
với vành môi mếu xệch; cái khóc của tân nương khi xuất giá là niềm vui thầm… hớn
hở!
a- Cái cười Việt
Nam
Dân Việt đương
nhiên có cái cái cười Việt. Nhưng theo từng tính khí của dân mỗi địa phương và
nhất là tùy theo chiều dầy lịch sử văn hóa và sắc thái ngôn ngữ , chúng ta phân
biệt ra có những cái cười Bắc, cười Trung, cười Nam. Cười thời vua chúa, thời
ngoại thuộc thì đương nhiên khác cái cười thời độc lập, thời dân chủ và thời cọng
sản, tương ứng với hoàn cảnh biến thiên của chính trị, kinh tế và nhân văn của
mỗi giai đoạn. Cười thời người khôn của khó thì cười kẻ tham ăn giành dựt, cười
thời bị áp chế thì nhắm vô kẻ thống trị quyền thế. Cười thời chữ Nho thịnh hành
thì diễn tả qua những câu chữ Nho, thời tân học thì pha ngoại ngữ. Thổ âm của một
địa phương như giọng miền biển, giọng xứ đù, giọng trọ trẹ, giọng cọc cạch trở
thành một đề tài để dựng thành một chuyện cười!
Trên phương diện
phẩm chất và giá trị, cái cười theo từng giai đoạn lịch sử, từng địa phương, từng
hoàn cảnh của dân gian đều có những sắc thái khác nhau nhưng chung qui thì cười
căn bản là vui thích, là xả su-báp, là giải tỏa ẩn ức, nhưng dần dà trở thành một
khí giới để châm biếm, đả phá và trào phúng đối phương.
b – Bẩn thỉu hay
Mặn mòi? ( Sale ou Salé)
Nhìn tổng quát,
cứu cánh của cái cười Việt Nam luôn luôn vẫn là xây dựng. Tuy nhiên, một số
chuyện cười quen gọi là chuyện tiếu lâm bị chê trách vì thường xoáy về cái „tục“
và đả động đến hành động tính giao (sex) và bộ phận của tính phái. Nhưng trên
phạm trù phân tâm học, những chuyện tiếu lâm hay thi văn tục có cái cứu cánh
lành mạnh trong vai trò làm những nút thoát xả để gỉai tỏa những ẩn ức về bản
năng tính dục dưới sự kiểm duyệt nghiêm khắc của luân lý đạo đức. Chúng ta cần
có một sự nhận định nghiêm túc sau:
* Tính cách của một chuyện bẩn thỉu (dirty!)
bị xem là hạ cấp khi nó chỉ phô bầy trắng trợn cái dơ bẩn, rác rưởi, làm công
súc tu xỉ ( Theo tự điển Larousse, Histoires sales: Histoires ordurières, obcènes
qui blessent la pudeur).
* Còn nếu câu chuyện tuy rằng bản chất rất
phóng khoáng, tươi sống, táo bạo, đánh trực diện nhưng được kể một cách không tục
tĩu mà dí dỏm và bóng bẩy thì đó là những chuyện mặn mòi thú vị mà bất kỳ giới
nào trong xã hội cũng thích nghe( Histoires salées : Histoires très libres,
crues, osées et grivoises ; – Grivois ( gốc do chữ guerre – tác chiến): libre
et hardi, sans être obcène.) Những chuyện tiếu lâm Việt Nam có thể nói phần lớn
nghe tục nhưng là tục thanh, khích động tiếng cười, không tục tĩu và rác rưởi (
obcène et ordurier) và nhất là không hoàn toàn khích dâm ( Porno).
II- Cái Cười của
Huế
Bút khảo này nói
đến một số chuyện cười cũng như một số thi văn vui của xứ Huế, đương nhiên có tục
có thanh:
* "Tục" vì đôi lúc phải nói trắng,
nói trực diện theo lối của thôn quê mà người dân không e dè nói "nguyên con" như tên của những con
bài tới con C…, con L…nhưng tục một cách bổ ích vì nó phản ánh những khía cạnh
tập quán phong tục trong nền văn hóa hạ tầng cơ sở (Substrastructure de la
culture). Đa số những tiếu lâm bình dân đều có cái tục này;
* còn "thanh" là cái tục về tính dục
được thăng hoa và mỹ hóa bằng các gói ghém những cái thô tục với những ẩn dụ
văn chương (metaphor), những tiểu xảo ngôn ngữ như nói lái, nói lóng, hay bằng
những vần thơ thi vị. Đa số thi văn tiếu lâm của sĩ giới đều có cái nét "tục
tục thanh thanh " này, đây là một hình thức thỏa hiệp giữa bản năng và lý
trí. Vạn sự xuất ư nông, kẻ sĩ xuất phát từ nông dân mà!
Kho tàng truyện cười và thi văn vui tiếu lâm của
Việt Nam qua ba miền Bắc Trung Nam của đất nước rất nhiều, vốn thường pha trộn
với nhau, như vậy làm sao phân biệt đâu là của riêng đất Huế? Tôi bèn xin dựa
theo những tiêu chuẩn sau để phân biệt:
+ không gian, thời gian và phong tục tập quán
phản ảnh trong những chuyện, nhất là tục hò hát ở các địa phương Thừa Thiên Huế
như rạp Đồng Xuân Lâu…
+ ngôn ngữ của một số câu chuyện xây dựng trên
một số thổ âm đặc thù của Thừa Thiên Huế;
+ và rõ ràng nhất là tên của những tác giả thi
văn gốc Huế .
Tuy nhiên những
tiêu chuẩn trên đôi khi có thể sai vì khó tránh được một vài trường hợp bị người
đời gán ghép khiến sự khảo sát rất khó khăn khi mà dân ba miền Bắc Trung Nam đã
có dịp tiếp xúc chung đụng và ảnh hưởng lẫn nhau
III – Vài mẫu
chuyện và thơ cười xứ Huế
Sau đây, xin mời quí vị thưởng lãm vài cái cười
của Huế sau đây .
a-Chuyện cười
trong dân gian
Chữ chi?
Có hai vợ chồng
vào đêm động phòng, chồng chỉ chữ Song Hỉ mà đố vợ:
_ Chữ chi đây em?
_ Song Hỉ!
_ Mô phải rứa.
_ Vậy là Tam Hỉ!
_ Cũng mô phải.
_ Tứ Hỉ!
Chồng bèn nói
:”Càng mô phải nữa”. Nói xong, anh bèn hôn vợ và nói : Ngủ hỉ! Vợ mỉm cười và
hiểu ý. Sớm mai thức dậy, vợ âu yếm nói: _ Anh ơi, em biết rồi, chữ đó đọc là “
Sướng hỉ”
Mi như con C… của
tau!
Một quan huyện
qua đò ngang. Lúc sắp lên bờ quan bị trợt té xuống nước vì tên lái đò vô ý chống
sào không kịp. Quan bèn tức chưởi:
"Mi như con C… của tau!"
Về nhà, bà huyện
thấy chồng bị ướt bèn hỏi thì quan kể sự tình, bà liền tru tréo: "Không được, như vậy là ông chui vô cái
của vợ hắn à?". Quan huyện bèn chạy ra bến đò mà nói lớn: "Ê, thằng
lái, tau là con C… của mi!". Nhưng về nhà, bà huyện lại thét rằng: "
Mô được, té ra ông cho thằng lái đò hắn chui vô của tui hả?" Nghe vậy,
quan huyện lại chạy ra sông nói: " Ê Lái đò! C… của tau, tau giữ! C…của
mi, mi giữ. Mình đừng lộn xộn nữa".
( Chú thích::
"Mi như con C… của tau" là câu chửi hạ cấp quen nghe ở Huế khi người
ta tức giận! Chữ C… là một danh từ dung tục bình dân nơi cửa miệng kẻ bình dân.
Khi một người tức giận, dù là kẻ văn nhân trí thức , ai cũng phải nói huỵch tẹt
ra cho đã nư mà ta gọi là "văng tục",
chứ có ai lại nói những từ hoa mỹ như dương vật hay ngọc hành. Chuyện văng tục
là chuyện bất đắc dĩ, đối cùng , khi không còn chữ gì để nói thì người ta mới
xài. Chẳng ai thích nghe văng tục cả. Tuy nhiên có những trường hợp thì những
chữ chửi thề Đ. này, Đ .nọ lại có vẻ đắc dụng và lưu danh hậu thế như câu thơ của
Cao Bá Quát ở pháp trường khi dao kề cổ:
Ba hồi trống dục
đù cha kiếp
Một lưỡi gươm
đưa đéo mẹ đời
hoặc Thủ Khoa
Huân khi lên máy chém đã ngâm bài thơ tuyệt mệnh với 2 câu cuối là:
Thắng bại doanh
thâu, trời khiến chịu,
"Phản thần",
đụ mẹ đứa cười ông!
Trong lịch sử Pháp, Talleyrand đã nói một định
nghĩa gán cho Napoléon đệ nhất là : Cục cứt trong chiếc vớ lụa ( De la merde
dans un bas de soie- Mots historiques trong Le petit Larousse illustré 2002)
Thành ra tục hay
không tục, cái đó tùy cách nói!
Anh cho em thoa
một chút hí!
Một ông tên là
Nghệ đi qua cánh đồng thấy các o gái quê hò hát vui vẻ đối đáp dưới ruộng. Tục
này vùng quê gọi là “hò môi miếng” vì người hò phải lanh trí đối đáp liền miệng
tại chỗ. Ông Nghệ bèn nham nhở dừng lại và nói:
"Tên tui là Nghệ, tui đố các o làm răng, khi hò có tên tui ở trong
có được không?"
Dạ thưa anh, có khó chi mô, một o gái bèn trả
lời! Xin anh hãy nghe đây:
" Hò ơ ơ ơ … Ơi anh ơi , ba tháng mười
ngày em mới hết phong long.
Anh cho em một chút để em thoa trong với bóp
ngoài!"
Chú thích: Phong
tục ở Huế, đàn bà đẻ thường nằm cữ trong buồng kín đến 100 ngày mới dám ra
ngoài vì sợ gió máy quen gọi là cữ “ phong long”. Trong thời gian, nằm cữ (hay
nằm bếp), phụ nữ thường giã củ nghệ mà thoa bóp khắp người cho da dẻ dắn chắc
và nhứt là vết rách ở cửa mình cho mau lành!
Hò "đối đoạn"
ở rạp Bà Tuần
Câu chuyện sau
thanh lịch hơn. Vùng Thừa Thiên-Huế thuở trước, người dân có nhiều lối hò như
hò ân tình, hò đâm bắt, hò đối đoạn. Trong lối hò đối đoạn, bên nữ hò trước rồi
bên nam đối sau, miệng vừa hò, tay vừa cầm chày giã vô cối, vừa xô. Qui luật là
các động tác phải ăn nhịp với nhau, chày không được va chạm nhau. Nữ hò xong,
nam phải đối ngay, không được để lâu quá ba nhịp chầy.
Có một lần vào
trước 1945, hò đối đoạn được tổ chức ở rạp hát Đồng Xuân Lâu ( tục gọi là rạp
Bà Tuần), để tranh tài giữa phe nữ ở Huế với phe nam từ Quảng trị vô. Trong lần
hò này, bên nữ xuất chiêu rất độc khiến bên nam phải thua. Câu hò đó như sau:
Ba ba nấu cháo nồi
ba
Tam tam nhừ cửu
cháo đà chín chưa?
Cái hóc hiểm là
Ba là con số 3, chữ nho là Tam; Tam Tam (3 nhân với 3) là Cửu tức là số chín.
Nhưng rồi nam nữ
“ kỳ phùng địch thủ” đôi lúc cũng huề nhau. Như bên nữ hò trước là:
Dạ là đêm, đêm
nay rồi đêm nữa
Hỏa là lửa, lửa
ngọn đến lửa than
Em thấy anh cao
họ lớn làng
Muốn trao duyên
gửi nợ nhưng ngại ngái đàng không dám trao! (Ngái đàng : xa đường)
Bên nam bèn hò đối
lại ngay:
Nhựt là ngày,
ngày này sau ngày trước
Thủy là nước, nước
đục lại nước trong
Tiếng đồn em cao
họ lớn giòng
Ước kết duyên Tần
Tấn nhưng những ngại ngùng biết nói sao!
Thường thường
trong mỗi đội nam nữ đi hò tranh giải, luôn có một vài ông thày, bà thày quân
sư đi theo để cố vấn mách nước.
Sau đây là những
câu hò đối đáp được hiện đại hóa vì có chen tiếng Tây, chữ Nho um xùm theo tôi
nghĩ là về sau được người có tây học chế ra cho vui:
Bên nữ hò:
Năm (5) con chim
xanh ( cinq), đậu cành cây ngủ
Sáu (6) con bọ
xít (six), sắc lục khó tề
Trai nam nhơn
chàng mà đối đặng sẽ chịu bề nâng khăn
Bên nam đối lại:
Tám ( 8) con tu
huýt (huit) , kêu cây bát bát
Mười con chuồn
chuồn đỏ đít (dix) lượn thập ác nhà
Tui đây đối lại
đó đã nghe chưa? Về xin cha mẹ mà định giờ nghi gia!
Sau đây nghe đâu
là một câu hò chưa ai đối đáp lại vì xổ quá nhiều chữ Nho:
Con chim chàng
làng đậu làng tre họ,
Kêu lên tám tiếng
“ tri vi tri, bất tri vi bất tri”
Chàng mà hay chữ
đối đi,
Nếu không thì đứng
ngoại trường thi chớ vào!
Tám chữ Nho nhại
tiếng chim kêu, nguyên là lấy từ sách Nho: ”Tri vi tri, bất tri vi bất tri, thị
tri giả”
( Biết thì nói
biết, không biết nói không biết, đó mới là người biết vậy)
Nói chữ Nho!
Nhà nọ có ba chị
em thông thái hay nói chữ Nho. Có một chàng Ngốc chuẩn bị làm rể để xin cưới cô
thứ hai. Bữa nọ, Ngốc đến chơi, cô út ra chào và mời ngồi đỡ trên chõng tre: “
Tọa sàng yến phu lang” ( Mời anh rể ngồi trên chõng). Ngốc không hiểu gì luống
ra về. Bữa sau, Ngốc tới thăm, thấy cửa trước không ai, bèn lẻn vô cổng sau, thấy
ba chị em đang tắm ở bờ giếng, cười khúc khích.
Cô út chỉ vô
mình mà nói: Bạch bạch như phấn trang! ( Trăng trắng như phấn vậy).
Cô thứ hai cũng
chỉ vô mình mà nói : Úc úc như hình qui!( Khum khum tựa mu rùa)
Cô cả lớn cười
sau khi chỉ vô mình: Hắc hắc như côn lôn! ( Đen đen như núi Côn lôn)
Ngốc ta bèn nhẩm
đọc thuộc lòng, để sau có dịp đem ra ứng đáp.
Thế là lần thứ
ba, Ngốc lại thăm , cô Út lại ra chào mà nói: Tọa sàng yến phu lang!
Ngốc bèn chỉ vô
cô út mà nói : Bạch bạch như phấn trang! khiến cô này trẽn quá (mắc cỡ) ù té chạy
vô gọi cô thứ hai ra.
Cô này bèn hỏi :
Phu quân như hà ti? ( Chàng ơi có chuyện gì đó ?)
Ngốc bèn bạo dạn
trả lời: Hà ti chi mà hà ti, Úc úc như hình qui! khiến cô hai cũng bỏ chạy.
Cô chị cả trong
nhà chạy ra khuyên nhủ : Thôi, dượng bất mật ngôn! ( Xin dượng đừng nói lóng nữa).
Ngốc bèn chỉ vô
cô chị và nói tỉnh tuồng: Mật ngôn chi bất mật ngôn! Hắc hắc như côn lôn.
( Câu chuyện này
không bảo đảm hoàn toàn gốc Huế, nhưng cũng đánh dấu một thời Nho học trước đây
còn tồn tại lâu ở xứ Huế, tôi xin kể để bạn đừng quá xét nét mà đọc cười cho
thư dãn!)
Con tui chết đứng
ngay đơ!
Câu chuyện cười
sau, nói ngay tình, tôi không rõ nó phát xuất từ mô, nhưng tôi lần đầu
"nghe" ở Huế. Vài chuyện cười hay, cũng giống như vài câu ca dao Việt
Nam, được gán ghép cho do nơi này nơi nọ đẻ ra, thật không biết mô làm bằng cứ.
Tuy nhiên, vì cái giọng kể của nó, tôi đoán rằng ít nhất nó cũng khai sinh ra tại
một địa khu nào trên giải đất miền Trung. Câu chuyện xin kể như ri nì:
Một anh học trò
đi trên đường cái, ngó xuống ruộng thấy một lũ con gái quê cắm cúi cấy lúa bèn
giở giọng chòng ghẹo sàm sở:
Con tui ..ờ ơi…
hắn chết đứng ngay đơ,
Tử vô địa
táng…tui xin chôn nhờ đất o!
Anh chàng tưởng
rằng ăn nói ngon lành và mạnh dạn như vậy, đố ai dám đối đáp. Ai ngờ, trong đám
thôn nữ dưới ruộng, một o đứng ưỡn người lên giơ tay ngoắc:
- Yêng ơi! cho em đáp thử yêng coi!
Đất em ..ờ ơi
sâu hoắm ổ gà.
Dét đầu cha hắn
vô cũng đặng… khỏi cần dét con!
Dét tức là
„nhét“ nói theo tiếng Huế bình dân cũng như câu sau ni:
Tau ở dà tau,
tau dớ mi
Dớ mi nên phải
bước chân đi
Không đi thì mi
biểu rằng không tới,
Mà tới thì mi hỏi
tới mần chi!
Dục cái dĩ, Dục
cái dã
"Dục cái
dĩ, dục cái dã" là một câu nhại âm chữ Nho thường được những trai gái ở Huế
dùng để hò khi mở đầu một câu hò khi giã gạo. Sau đây là một đoạn hò giã gạo do
ông Âu Ngọc Trác (Philadelphia) sưu tầm:
Nữ hò trước:
Dục cái dĩ, dục
cái dã
Thấy anh hay chữ
Em xin hỏi thử
vài câu
Trung tâm vô vũ,
nước đâu chảy hoài?
Bên Nam gặp cái
ý hóc búa là : "Trung tâm vô vũ, nước đâu chảy hoài ?" nghĩa là
"trong bụng không có mưa, vậy nước ở đâu ra?"
Nhưng rồi, chàng
trai cũng đáp lại một cách lém lỉnh như sau:
Dục cái dĩ, Dục
cái dã!
Không nói ra thì
em cười anh dại
Nói ra …thì thiệt
hồ đồ!
Mà nước bên Nam
Việt chẩy qua hồ nữ nhi!
Nhận xét: Chữ
Nam trong chữ Nam Việt chỉ phương Nam chứ không phải là chữ Nam là con trai đối
với chữ Nữ là con gái, nên câu hò đáp không chỉnh lắm, nhưng dầu sao thì bên
nam lanh trí đã dùng để gỡ bối rối mà thôi!
Hóc xương
Có một chàng rất
háu ăn, một bữa qua ăn kỵ tại nhà người bác. Chàng ăn uống tha hồ tộng vô họng
đủ thứ, bất ngờ bị xương cá mắc cổ. Chàng muốn khạc ra nhưng không biết mần
răng, bèn ngó lên nóc nhà hỏi người bác:
- Thưa bác, nhà
bác lợp tranh hay lợp lạt ( Anh cố ý nói thiệt lớn tiếng những tiếng bác, tiếng
lạt như muốn khạc cho cái xương ra)
- Lợp tranh cháu
à!
Chàng hóc xương
đang muốn tìm một câu hỏi khác thì một thằng nhỏ dỡn chơi, ù té chạy vô đụng
cái bàn. Chàng lanh trí bèn nói:
- Đừng chạy vô xớn
xác!
Nhờ anh gào to
chữ "Xác" đọc là Xạc nên cái xương bắt đầu chớm tróc ra. Nhưng thằng
nhỏ sợ quá bỏ chạy ra. Anh ta làm bộ nhân từ, giữ nó lại và nói :
- Đứng với bác
nghe Thôi đừng chạy ra chỗ khác!
Lần này, tiếng
Khác đọc thêm âm tiếng Huế là Khạc đã làm cái xương văng ra một cách ngon lành.
Vua Tự Đức bị
Nguyễn Du xỉ vả!
Câu chuyện sau
tôi đoán rằng các nhà nho đặt ra để cười. Ở triều đình Huế, sau khi hoàng tử Hồng
Nhậm lên ngôi lấy niên hiệu là Tự Đức, thì cái tên riêng Hồng Nhậm được chuyển
làm tên tự, vì nhà vua chọn chữ Thì làm tên chính thức của mình. Vậy chữ Thì
này, người dân không ai có quyền gọi ra mà phải nói chuyển âm là "thời",
dân Huế quen nói thời giờ mà không nói thì giờ là vậy. Học trò đi thi phải kỵ
húy khi viết chữ Thì phải đổi thành chữ khác, hay nếu không đổi được thì đi thi
phải viết bớt một nét. Ai vi phạm kỵ húy thì thi rớt và bị tội. Do đó, các nhà
nho cũng dựa vào đó mà đặt thành một chuyện tiếu lâm. Họ dựng chuyện mà giải
thích rằng đọc truyện Kiều người ta mới khám phá rằng vua Tự Đức bị xỉ vả tàn tệ
nào là người dâm đãng, nào là kém cỏi, ti tiện!
Hãy đọc bằng chứng
sau qua hai câu:
*Ra tuồng trên bộc
trong dâu,
Thì: con người ấy
ai cầu làm chi!
*Tha cho Thì
cũng may đời
Làm ra Thì cũng
là người nhỏ nhen!
b-Cái Cười tiếu
lâm của thi nhân xứ Huế
Ở Việt Nam, nữ
sĩ Hồ Xuân Hương ngoài Bắc thời vua Lê chúa Trịnh là người nổi danh quán quân
đã tiên khởi đem cái tục về tính giao vào văn chương. Bẵng đi một thời gian,
không ai nối gót bà. Phải chờ đến khoảng cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, cái
truyền thống làm thơ tục thanh thanh tục của Hồ Xuân Hương mới xuất hiện lại ở
kinh kỳ xứ Huế, được một số thi nhân hưởng ứng một cách nhiệt tình với một số
lượng đáng kể về những bài thơ độc đáo mà phẩm chất không kém phần mặn mòi, thú
vị chút nào. Những nhà thơ xứ Huế sáng tác một cách nghiệp dư trong lĩnh vực
không phải là dân dung tục ít học mà là những người nho học, khoa bảng đáng
kính nể như tôi trích dẫn sau đây… Kỹ thuật của họ không những chẳng kém gì Hồ
Xuân Hương trong tài nói lái, tài miêu tả sống động bóng bảy "thi trung hữu
họa", nói là họa vì đọc thơ thấy hình ảnh đối tượng vẽ ra trước mắt; về lối
gieo vần cũng hiểm hóc vô cùng. Ngoài ra, họ còn sử dụng nhiều hơn trên phương
diện tinh xảo về thi tài như dùng những ngạn ngữ v.v…
Tôn Thất Diệm
(1853- 1922)
Hiệu là Mộng Phật.
Đậu tú tài Hán học 1878. Làm quan từ chức Tri Huyện (1881) đến chức Tham Tri.
Năm 1910, về hưu trí với hàm Thượng Thư. Mất năm 1922.
Giống mẹ
( mỗi câu là một
điển ngạn-ngữ)
Giống mẹ không
sai chút bẻo beo,
Cuống đầu tỏ đặng
lúc chồng cheo.
Chơ hơ giữa chợ
phơi ba vạ
Nút nớt trong
cươi trợt một keo.
Đánh giấc mê man
tha kệ chuột
Nổi cơn quay quắt
dữ hơn mèo.
Đi nhai, đứng ngậm,
ngồi cười gẫm
Róc rách bên cồn
ngọn gió heo.
Tôn-Thất Mỹ (
1860- 1913)
Sanh tại làng An
cựu Huế. Hiệu là Tam Xuyên. Đỗ cử nhân và làm quan đến chức Án sát ở Nghệ An và
Tá Lý bộ Lễ triều Tự Đức. Mất tại Quảng Bình năm 1913.
Phú Đắc
(dựa vào câu :
Con ai đem bỏ chùa này, Nam mô Di Phật, con thầy thầy nuôi.Bài này làm để cười
chuyện thầy chùa Túy vân)
Nghe tiếng ù oa
trước cửa chùa,
Nam mô di Phật
phải phân bua:
Một là em bậu
hay cầu tự
Hai nữ ông thầy
khéo đội tu
Quét sạch lá đa
rồi thí nghiệm
Xây tròn quả
phúc lắm công phu
Tay chuông tay
mõ rù rì tụng,
Oan hỡi mà ung
Phật chứng cho.
(Chú thích:
Ngoài cách nói lái như “đội tu”, những từ ngữ như lá đa, quả phúc, rù rì rất gợi
hình)
Đưa O Đoài bán
bánh
(mỗi câu có tên
một thứ bánh và bát quái)
Vẻ ngọc càng
say, rượu ít nồng
Kìa ai vòng Khảm
đúc hình dung.
Cấn nơi quán
khách e dầy dụa
Chấn bức mành ba
những ước mong.
Chiếc lá tốn
công, giòng bích thủy
Dấu bèo ly hận
ngọn đông phong.
Nhắn em xem chợ
lời khôn hỏi
Ngảnh mặt non
đoài mảnh ráng hồng.
[Chú thích: _
Tám quẻ Bát quái là Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài ( tiếng Huế: Cấn
quen dùng trong chữ cấn tiền, cấn nợ là xin gán nợ, ăn chịu; Chấn nghĩa giống
như chắn che ngăn cách); _ Tám thứ bánh là: Ít, đúc, dầy, ướt, lá, bèo, hỏi,
rán(g)]
Theo cụ Hoàng Trọng
Thược biên khảo trong cuốn Nghệ thuật trào phúng và nụ cười trong Thi văn Việt
Nam, Tam Xuyên Tôn Thất Mỹ là một con người tài ba phóng túng mà nhà văn Nguyễn
Tuân đã nhắc tới trong cuốn Vang bóng một thời của ông về giai thoại "Thả
thơ" của ông với bà hầu non là Mộng Liên. Hai ông bà dong chơi đi bộ từ
Nghệ An vô Huế, tới đâu thì dừng chân lại tổ chức những buổi thả thơ để kiếm tiền
đi đường. Đi đến Đèo Ngang ( Hà Tĩnh), nhân trời tối nhân gió mát trăng thanh,
ông bà ngủ đỡ trong một quán lá vắng chủ…. Trong đêm này, ân ái nồng nàn với vợ,
ông bị chết vì thượng mã phong. Trong đám tang của ông ở Huế, có nhiều câu đối
phúng điếu của các thi hữu, trong đó đáng kể nhất có câu của Thượng Thư bộ Lại
là Phước Môn Nguyễn Hữu Bài như sau:
Ra Bắc vào Nam
trăng gió đề huề thi một túi,
Lên đèo xuống ải
mây mưa đánh đổ cuộc trăm năm
Câu này thắm thiết
tả cảnh, tả tình rất sát cho trường hợp của Ông Tam Xuyên, nhất là cảnh
"lên đèo xuống ải mây mưa" khiến ông phải thượng mã phong! Chúng ta
phải ghi nhận đây là "nụ cười đen" nơi xứ Huế!
Nguyễn Đôn Dư (
1908 – ?)
Người làng Thế Lại
thượng, huyện Hương trà, Thừa thiên. Biệt hiệu là Quỳ -Ưu, làm Công chức, có
chân trong Hương Bình thi xã. Cụ có làm nhiều bài thơ với giọng trào phúng mỉa
đời như bài Trò Sân Khấu, Vịnh cái mõ, Cháy nhà ra mặt chuột, Vịnh con Nộm nan,
Gà đá nhau. Về phương diện tiếu lâm, cụ có bài sau dí dỏm cho cảnh một ông già:
Vịnh cái bật lửa
cũ
Lẹt xẹt hồi lâu
lửa chẳng ra
Ngán thay cái quẹt
của ông già
Con cò chắc đã
mòn khu ốc
Viên đá e khi hỏng
ruột gà.
Đè xuống kéo lên
thêm hỏng trục,
Bấm qua bóp lại
muốn trầy da.
Dầu đà xì bậy,
tim đà ướt,
Toan vất nhưng
mà có kẻ la!
( Chú thích: Đè,
kéo, bấm, bóp, xì bậy, tim đà ướt toàn là những chữ hiểu thế nào cũng được. Tiếng
Huế nói la không phải là hét mà cũng như nói trách mắng (Bắc) hay rầy ra (Nam),
ví dụ: Về trễ, bị vợ la!
Hoàng trọng Thược
Bút hiệu Hương
Thủy, sanh năm 1910 tại Nguyệt Biều, huyện Hương Thủy, Thừa Thiên. Đỗ tú tài bản
xứ tại trường Bưởi Hà nội ( 1931), từng là công chức Nam triều ở Huế. Chức vụ
cuối là Giám đốc Quan Thuế ba miền. Về hưu năm 1965. vừa mới mất tại California
(Hoa kỳ). Dưới bút hiệu thi sĩ Hương Thủy, cụ Hoàng Trọng Thược đã làm nhiều
bài thơ rất hay, nhất là thơ trào phúng và châm biếm thời thế như cuốn Hương
Bình thi phẩm ( 1962). Trên phương diện biên khảo, cụ đã xuất bản nhiều sách có
giá trị: Thi ca châm biếm Việt Nam ( 1969), Huế Thi ca trào phúng ( 1973), Vua
Duy Tân ( 1984) , Nghệ thuật trào phúng và nụ cười trong Thi văn Việt Nam.
Riêng tôi rất biết ơn cụ qua nhiều sự tham khảo vào những trước tác quí giá của
cụ. Cụ Hoàng Trọng Thược có làm nhiều bài thơ loại ỡm ờ kiểu Hồ Xuân Hương với
ý tưởng phong phú, và từ ngữ tài tình dí dỏm dựa trên những đề tài hiện đại như
Tắm Hố và chơi tennis.
Vịnh Lão Tướng
Quần vợt (1960)
(Honni soit qui
mal y pense)
Bài này gồm 3
bài liên hoàn, lấy câu chót một bài để mở đầu cho bài kế, tôi xin trích dẫn cho
đủ để bạn đọc thưởng thức cho trọn vẹn cái đại tài của tác giả
Càng già càng dẻo
lại càng dai,
Lão tướng ra quần
chẳng kém trai!
Đấu mấy hiệp liền
không đuối sức,
Tranh ba ngày tiếp
chẳng mòn hơi.
Khi mau, khi chậm,
khi mơn ngắn,
Lúc xuống, lúc
lên lúc thọc dài.
Gác lại, gác qua
phô đủ kiểu,
Mòn lông banh nỉ
lão còn chơi
>
Mòn lông banh nỉ
lão còn chơi,
Cân sức cho nên
chẳng dám lơi:
Chống đỡ gay go
trào bọt mép
Cò cưa dai dẳng
toát mồ hôi.
Chơi trưa chưa
phỉ còn chơi tối
Đánh chiếc xong
rồi lại đánh đôi.
Phút chốc mưa
đâu tuôn xối xả,
Cuộc vui hào hứng
tạm ngưng rồi.
Cuộc vui hào hứng
tạm ngưng rồi,
Chốc nữa lau khô
lão lại chơi.
Biểu diễn sân
quen hay đáo để,
Nắn dồi banh mới
sướng mê tơi
Người trên ập xuống
phều phào thở,
Kẻ dưới nâng lên
khúc khích cười.
Đối thủ gặp nhau
mùa nắng cực,
Quần lâu thấm mệt
ngã lăn nhoài.
Trong bài thơ
trên, tác giả dùng nhiều danh từ chuyên nghiệp của giới chơi quần vợt, khiến
tôi liên tưởng tới chuyện sử dụng những danh từ trong ngành đan đát tại làng Bầu
La ( Bao La) tỉnh Thừa Thiên Huế, chuyên làm nghề đan thúng mủng đem ra bán
trên chợ Đông Ba. Câu chuyện đại khái là trong làng Bầu La, một dịp nọ, một đám
con trai nơi khác đến coi các o đan đát rồi một anh đòi vô ngồi đan nữa nên một
o mới chua ngoa hát rằng:
Liệu mà đát được
thì đan,
Đừng có gầy ra rồi
bỏ đó, thế gian chê cười!
Những chữ đát,
đan, gầy, bỏ là những tiếng nhà nghề, nhưng chàng trai cũng tỉnh bơ đáp lại:
Anh đây đan cũng
giỏi mà đát cũng tài,
Lận thì nhún
trên, nhún xuống, nứt thì chui ngoài chui vô!
Tiếng Lận, Nhún,
nứt, chui là những tiếng nhà nghề về đan đát khác. Nhưng lại có một chàng khác
nhẩy vô vòng chiến với câu hò sau:
Bớ các o ơi, Tui
đây không phải là trai hư
Tôi đan đặng,
tui đát được, tội lận chừ cho o coi!
Lận rồi tôi chận
lột hẳn hoi,
Ở trên tui nấn
xuống, ở ngoài tôi đè vô!
Nói ra sợ mất
lòng o,
Ngó trong cái mủng,
chỗ mô tui cũng dùi!
Trong câu này, lại
có thêm những tiếng nhà nghề khác như Chận, Lột, Nấn. Đè và cái Dùi.
III – Thay lời kết
Trên những chuyện
cười và thơ tiếu lâm Việt Nam nói chung cũng như ở Huế nói đặc biệt riêng, những
chuyện tính giao nói ra thì thường khiến giới đạo mạo lịch sự nhăn mặt chê bai
là chuyện dâm ô… nhưng nếu chuyện đó được trình bầy dưới hình thức ẩn dụ (
metaphor) bằng những từ uyển mỹ ( euphemistic) và gói ghém tài tình qua những vần
thơ, thì nghiệm ra đó là một điều bổ ích trong sự giải tỏa tiềm thức bị dồn
nén, tiêu sầu giải muộn và cung hiến nhiều yếu tố lành mạnh cho cuộc đời thêm
phong phú, thú vị và nhất là mặn mòi hơn. Trên phương diện phân tâm học, nói và
nghe chuyện và tiếu lâm không thể nói là một đặc thù bệnh lý, mà ta có thể nói
nhờ nó mà văn hóa Việt Nam không bị thác loạn về tình dục ( perversion
sexuelle).
Chúng ta có thể
định nghĩa chăng rằng Cười là một thứ ngôn ngữ "vô ngôn" ám tàng biểu
lộ từ cơ thể (body language) của một dân tộc. Còn thơ là một thứ ngôn ngữ
"siêu ngôn" phát biểu ra bằng những biểu tượng ám dụ của dân tộc đó.
Cái cười Huế đương nhiên chia xẻ một mẫu số chung về tính khí với những cái cười
của những địa phương khác ở Việt Nam vì con người dù là Bắc, Trung , Nam cũng
là con người Việt Nam. Tuy nhiên, trong phạm trù ngôn ngữ, ngôn ngữ xứ Huế có
những đặc thù về âm sắc và cách phát biểu từ ngữ riêng. Giữa xứ Bắc là nơi đất
cũ ngàn năm văn vật với ngôn ngữ ví von, rổn rảng và miền Nam là vùng đất mới với
cách ăn nói trực diện, chơn chất thì như vậy xứ Huế phải phô ra một hình thái về
cái nét cười nào chứ? Trung dung chăng? hay lắng đọng trong một địa tầng văn
hóa nào đó khiến người ta suy gẫm sâu xa? Người viết mong chờ câu giải đáp từ
nơi quí bạn.
LÊ VĂN LÂN
Tài liệu tham khảo:
* Kho tàng truyện
cười Việt Nam của Vũ Ngọc Khánh – Nhà Xuất bản Văn hóa – Thông tin , Hà Nội
1995
* Thi ca châm biếm trào lộng Việt Nam của Hoàng
Trọng Thược – Nhà sách Khai trí 1969
* Le Petit
Larousse Illustré 2002
No comments:
Post a Comment