Mặc Lâm, biên tập viên RFA 2012-01-07
Trong chương trình VHNT hôm nay Mặc Lâm tiếp chuyện nhà văn, nhà
phê bình văn học Trần Mạnh Hảo về hiện tượng nhiều lãnh đạo cao cấp của
Đảng Cộng sản Việt Nam lên tiếng phủ nhận những gì mà họ theo đuổi trong
suốt hơn nửa thế kỷ, trong đó không thể không kể đến hai khuôn mặt của
văn học nước nhà là nhà văn Nguyễn Khải và nhà thơ Chế Lan Viên
Trước tiên xin tóm lược một ít chi tiết về quá trình làm việc của
nhà phê bình văn học Trần Mạnh Hảo. Theo như ông kể thì ông sinh năm
1947 tại Nam Định. Lúc nhỏ Trần Mạnh Hảo theo cha xứ đi giúp lễ và học
kinh sách giáo lý chủng viện công giáo. Lớn lên đi học, vì lý lịch xấu
không được vào đại học.
Năm 1975 ông từ rừng Lộc Ninh về Sài Gòn, ra khỏi lính làm báo dân
sự. Năm 1982 vì viết bài thơ "Cho một người nằm xuống" để khóc Nguyên
Hồng ông bị treo bút ba năm. Năm 1989, in tiểu thuyết Ly Thân, ông bị
cho ra khỏi đảng, đuổi khỏi biên chế nhà nước.
Trần Mạnh Hảo đã xuất bản trên dưới 30 đầu sách. Tuy nhiên từ 10 năm
nay các bài viết của ông bị cấm in trên báo lề phải, không được xuất bản
sách trong nước. Trần Mạnh Hảo thú nhận hiện nay ông chỉ còn viết trên
Internet cho vui... Trần Mạnh Hảo cũng khẳng định rằng ông không làm
chính trị mà chỉ làm văn học, làm sứ mệnh thiêng liêng của người cầm bút
là nói lên, viết lên sự thật.
Thức tỉnh
Mặc Lâm: Xin cám ơn ông Trần Mạnh Hảo, câu hỏi đầu tiên có
lẽ xin ông cho biết tại sao lúc gần đây lại có hiện tượng rất nhiều cán
bộ cao cấp và văn nghệ sĩ nổi tiếng đã phát ngôn hay sáng tác nói lên
những điều mà nhiều năm trước đây không ai dám nghĩ là sẽ xuất hiện
trong chế độ toàn trị của đảng cộng sản Việt Nam?
Trần Mạnh Hảo: Theo tôi thì chuyện người ta già, người ta về
hưu, khi nhìn thấy cõi chết thì người ta thường quay lại kiểm điểm cuộc
đời và con người dù tàn ác đến đâu thì tạo hóa cũng cho một chút xíu
lương tâm có thể nó đã ngủ quên cả cuộc đời nhưng khi về già, khi gần
chết thì nó thức tỉnh. Chút xíu đom đóm lương tâm đó lập lòe trong tâm
hồn con người mà cả đời họ làm ác, có thể nó thức tỉnh, nó làm cho người
ta ân hận sám hối cho nên người ta nói lên sự thật, nói lên những điều
thật nhất mà suốt đời không có cơ hội để nói.
Tổng bí thư Nông Đức Mạnh (giữa), cựu Chủ tịch nước Võ Chí
Công (trái), và Cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt (phải) tại hội nghị BCH đảng CSVN lần
thứ 9. AFP PHOTO.
Về hưu
mới dám nói thật
Mặc Lâm: Cũng có người
tiếc rẻ khi những phát ngôn của nhiều cán bộ cao cấp tung ra quá chậm, khi họ
đã về hưu do đó không còn tác động gì lớn lao đối với hệ thống như khi họ còn
tại chức, đương quyền…
Trần Mạnh Hảo: Cái chuyện đó tôi cho là cũng rất bình thường
vì trong một xã hội toàn trị như Việt Nam thì những người là cán bộ cao
cấp họ không có dịp nói thật khi họ cầm quyền, vì nói thật ở Việt Nam là
nguy hiểm vô cùng. Bởi vì cái hệ thống chính trị của họ là một hệ thống
chính trị thật sự xa rời mục tiêu của sự thật.
Ví dụ như ông Võ Văn Kiệt đã lên tới Thủ tướng chính phủ, khi ông ấy
làm Thủ tướng ông ấy không dám nói thật nhưng khi về hưu rồi mới dám nói
thật. Ông nói thật một điều rất tâm huyết rằng ngày 30 tháng Tư là cái
ngày có một nửa nước vui, một nửa nước buồn. Một triệu người vui thì có
một triệu người Việt Nam buồn. Ông ấy nói câu ấy là quá đúng. Những
người miền Nam Việt Nam hồi đó họ thua trận họ vẫn có lý tưởng rất là
tốt đẹp phục vụ đất nước, dân tộc. Nhưng thua trận nên họ buồn và còn bị
bắt đi tù đày hàng loạt… họ buồn là đúng chứ sao bắt họ vui cho được?
Ông Kiệt đã nói lên một sự thật mà sự thật này khi đang làm thủ tướng
ông ấy không thể nói được cho đến khi về hưu mới nói được sự thật này.
Chính việc nói lên sự thật này dần dần ông sẽ nói ra các sự thật khác
cho nên rất nguy hiểm cho tính mạng của ông ấy.
Cái chuyện đó tôi cho là cũng rất bình thường vì trong một xã hội toàn trị như Việt Nam thì những người là cán bộ cao cấp họ không có dịp nói thật khi họ cầm quyền, vì nói thật ở Việt Nam là nguy hiểm vô cùng.
Nhà văn Trần Mạnh Hảo
Mặc Lâm: Còn chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An thì sao thưa ông?
Trần Mạnh Hảo: Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An là một người
suốt cuộc đời theo cách mạng, theo cộng sản nhưng khi nghĩ hưu rồi thì
cũng phải nói lên sự thật. Thà ông như vậy có thể tôi trọng ông ấy hơn
là những người cứ câm miệng suốt cả cuộc đời vì lương tri trong người họ
không trổi dậy. Nói cho cùng khi lương tri không thức tỉnh trong tâm
hồn họ thì họ sống cả cuộc đời không lương tri, không lương thiện.
Ông Nguyễn Văn An nói như thế này, Ông bảo hiện giờ không cải tạo
được đất nước vì cái sai lầm là của hệ thống mà muốn thay đổi cho đất
nước tiến lên thì phải thay cái hệ thống cộng sản này.
Mặc Lâm: Còn riêng về Phó thủ tướng Trần Phương thì sao?
Trần Mạnh Hảo: Ông Phó Thủ tướng Trần Phương là một người cũng
tận tụy đi theo cách mạng. Làm đến Phó Thủ tướng nhưng khi các ông ấy
ngồi lại để góp ý cho đảng thì ông ấy nói rằng cuộc đời trong mỗi cá
nhân chúng ta để vượt qua những sự kiện quan trọng trong đời mà cứ phải
nói dối người thân, nói dối gia đình, nói dối mọi người đến mấy lần thì
khi về già đã thấy ngượng, thấy xấu hổ lắm. Nhưng đảng cộng sản của
chúng ta từ khi sinh ra đến giờ toàn nói dối mà không biết tại sao đảng
không biết ngượng, không biết xấu hổ, không biết sám hối. Đấy là một cán
bộ cao cấp khi về hưu đã nói như thế.
Nhà thơ Chế Lan Viên và tác phẩm "Điêu tàn", NXB Văn học.
Bi kịch Đi tìm cái tôi đã mất
Mặc Lâm: Riêng về văn nghệ sĩ thì sao thưa ông?
Trần Mạnh Hảo: Giới văn nghệ sĩ rất nhiều anh em đã nói nhưng
nổi bật nhất vẫn là ông Nguyễn Khải và Chế Lan Viên. Ông Nguyễn Khải là
một nhà văn đi theo cách mạng từ năm 1945 là con một tri huyện mà là con
một bà vợ hai nên khi theo cách mạng ông khai là không có cha để tránh
việc bố ông ấy là quan huyện. Quê cha ông ở Nam Định nhưng ông khai quê
mẹ ở Hải Dương và không có cha. Cha ông ấy sau này đến năm 54 thì di cư
vào Sài Gòn.
Ông Nguyễn Khải là một nhà văn rất trí thức mặc dù ông chỉ học chưa
hết trung học của thời Pháp nhưng ông ấy chịu đọc và suy nghĩ viết lách
rất giỏi và rất thông minh. Cả cuộc đời ông ấy viết theo mệnh lệnh của
đảng. Tất nhiên những cuốn sách ông ấy viết đã lách ra khỏi hệ thống một
tí mà bây giờ người ta gọi là lề trái.
Trong sách ông ấy viết về lề phải nhưng khi mở ra người ta thấy đầy
lề trái trong đó. Tức là cái lề phải là lề của đảng cộng sản còn lề trái
là lề của những người bất đồng.
Trước khi chết ông Nguyễn Khải có viết mấy bài, sau khi ông ấy chết
mới tung ra rất là sâu sắc. Nói chung là ông ấy viết một cách trí thức
chứ không phải chửi bới vớ vẩn. Bây giờ ai vào trong Google đánh chữ
Nguyễn Khải đều hiện lên những bài của ông ấy nói về những đau đớn của
ông ấy như bài “Đi tìm cái tôi đã mất” hay là “Nghĩ muộn”. “Đi tìm cái
tôi đã mất” ông lấy trường hợp của bản thân ông, một con người sinh ra
đời, đi tìm chân lý, đi tìm sự thật đã thấy sự thật, chân lý mà không
dám vô! Bởi vì đi vào thì sẽ bị tù, sẽ bị bắt sẽ bị giết. Một sự đau đớn
vô cùng của một trí thức.
“Đi tìm cái tôi đã mất” ông lấy trường hợp của bản thân ông, một con người sinh ra đời, đi tìm chân lý, đi tìm sự thật đã thấy sự thật, chân lý mà không dám vô! Bởi vì đi vào thì sẽ bị tù, sẽ bị bắt sẽ bị giết.Cả bài “Đi tìm cái tôi đã mất” của ông Nguyễn Khải cuối cùng ông ấy kết luận là: Đảng cộng sản nên trả chính quyền cho nhân dân, đã cướp chính quyền của nhân dân rất lâu rồi hãy trả lại cho nhân dân cái quyền đã đánh mất. Các quyền tự do, dân chủ tất cả phải trả lại cho dân. Ông ấy còn nói về thân phận đau đớn của người cầm bút trong chế độ cộng sản mà không dám nói lên sự thật.
Nhà văn Trần Mạnh Hảo
Sự thật nó đến nhà nó ở trong tâm hồn mình. Chân lý nó nằm trong tâm
hồn mình mà mình sợ, mình run rẩy không dám nhận nó. Mình run rẩy bảo nó
cút đi vì nói ra bị tù bị tội rồi vợ con sống làm sao? Đi ăn mày à?
Cả cuộc đời ông Nguyễn Khải ông ấy viết trong sự sợ hãi. Ông ấy bảo
làm người mà như con gián thì làm sao thành người được? Nếu quý vị đọc
bài này của Nguyễn Khải thì quý vị thấy cái đau đớn vô cùng của người
cầm bút trong chế độ cộng sản. “Đi tìm cái tôi đã mất” là một bài viết
tôi cho là rất trí thức, rất uyên bác, rất hay. Nói về thân phận của
người cầm bút trong một chế độ toàn trị. Trong một chế độ mà không ai
dám nghĩ đến sự thật, chân lý. Vì nghĩ đến sự thật, nói đến chân lý thì
sẽ bị giết. Đấy là bi kịch lớn của chúng ta trong giai đoạn vừa qua.
Mặc Lâm: Theo chúng tôi biết thì trước đây ông Nguyễn
Khải rất thân tình với ông, có kỷ niệm gì giữa hai ông mà ông cảm thấy
cần chia sẻ với thính giả hôm nay hay không?
Trần Mạnh Hảo: Tôi là người đã từng là đàn em thân thiết của
Nguyễn Khải. Có những năm ông Nguyễn Khải vào Sài Gòn ở ba tháng trời
trong nhà tôi và khi tâm sự với tôi thì ông ấy không nói dối điều gì cả.
Ông nhận ra tất cả mọi cái nhưng không dám viết ra. Ông ấy tâm sự với
tôi và ổng khóc. Lúc ấy Sài Gòn mới giải phóng vài ba năm ông ấy vào nhà
tôi tại một chung cư văn nghệ sĩ ở Sài Gòn. Ông ấy ở với tôi, có ông Lê
Lựu nữa.
Có những đêm anh em tâm sự với nhau mà ổng khóc. Bởi vì con người ông
Nguyễn Khải có học ổng đọc sách, tiểu thuyết tiếng Anh tiếng Pháp thoải
mái và ổng rất uyên bác. Một con người như thế thì họ đau đớn là phải,
vật vã là phải thôi. Phải viết những điều mình không muốn bởi viết những
điều mình muốn mình tâm huyết thì không được in mà có in ra thì cũng
tai bay vạ gió.
Cho nên ông Nguyễn Khải đau cái đau thân phận làm con người trong một
chế độ toàn trị, không cho người ta tự do viết, trong khi mình là người
cầm bút là nhà văn.
Ông bảo nhục nhã lắm, đau đớn lắm. Những bài viết như “Nghĩ muộn”,
“Đi tìm cái tôi đã mất” Nguyễn Khải viết để trối lại cho đời sau, đọc
thấy cay đắng và đau đớn vô cùng.
Mặc Lâm: Xin chia sẻ một điều tôi rất lấy làm lạ là tại sao
Trần Mạnh Hảo lại nói được, chẳng hạn như bây giờ, mà Nguyễn Khải lại
không nói được? Có phải giai đoạn này nới lỏng tự do ngôn luận hơn hay
chăng?
Đau đớn như vậy, chết rồi mới dám nói ra sự thật, chết rồi mới dám sám hối. Đấy là một bi kịch đau đớn của người cầm bút.
Nhà văn Trần Mạnh Hảo
Trần Mạnh Hảo: Nguyễn Khải không ở trong tư thế nói như tôi
được vì tính cách của ông ấy khác. Ông ấy theo cộng sản từ năm 45 đến
giờ và đã đi hết cuộc đời rồi cho nên ông ấy muốn nói với hậu thế cái
điều thật nhất của ông ấy. Ổng viết ra rồi ông bảo gia đình ổng sau khi
ổng chết thì mới công bố.
Trong đám tang của Nguyễn Khải thì người ta mới biết bài viết của
ảnh, được gửi cho những người trong đám tang và họ đưa lên mạng. Đau đớn
như vậy, chết rồi mới dám nói ra sự thật, chết rồi mới dám sám hối. Đấy
là một bi kịch đau đớn của người cầm bút.
Nếu anh không có lương tri anh cứ cầm bút như một bồi bút thì suốt
cuộc đời anh không biết hổ thẹn, anh không biết ân hận thì những người
đó tôi không bàn đến.
Mặc Lâm: Thưa ông Trần Mạnh Hảo rất tiếc là thời gian của
chúng ta hôm nay không còn nữa, chúng tôi biết một nhân vật nữa mà thính
giả chúng ta đang chờ nghe vì sự có mặt của ông ta dưới mái nhà trường
của cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam. Ông là một hiện tượng trong phong
trào thơ Mới và sáng tác khi tuổi còn rất trẻ. Chỉ 16 tuổi ông ta đã nổi
lên như một ngôi sao sáng qua tập thơ “Điêu Tàn” với bút hiệu cũng lạ
lùng và ấn tượng là Chế Lan Viên.
Xin đề nghị chúng ta sẽ dành một chương trình đặc biệt để nói về
nhà thơ Chế Lan Viên, về những sáng tác sau cùng của ông với những nhận
thức mà theo nhiều người cho rằng một sự sám hối với chính mình. Xin cám
ơn nhà văn Trần Mạnh Hảo về chương trình hôm nay, xin cám ơn quý vị
thính giả đã quan tâm theo dõi.
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/LiteratureAndArts/highrk-off-enlightenmnt-01072012125007.html
vmlam01072012.mp3
--
Theo nhận xét của nhà
thơ, nhà văn kiêm nhà báo Việt Nam Trần Mạnh Hảo, Chủ tịch nước Trương
Tấn Sang khẳng định hệ thống chính trị của chúng ta “không dám nói lên
sự thật”. Tức hệ thống của CHXHCNVN chỉ là dối trá. Trên báo Sài Gòn
giải phóng online ngày 13-02-2013, trong bài: “Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang: Vũ khí của chúng ta là dám nói lên sự thật” (1) có đoạn viết như
sau: “Khi nghe bà Phan Thị Tươi giới thiệu chồng mình - ông Hoàng Thái
Lai, đã nghỉ hưu nhiều năm nay, hiện là Bí thư Chi bộ khu phố 2, phường
Thảo Điền (quận 2), Chủ tịch nước hỏi: “Đồng chí có gửi gắm gì không?”.
“Tôi mong mỗi cán bộ lãnh đạo hãy làm đúng những gì đã nói”. “Đúng, làm
đúng những gì đã nói đang là thách thức rất lớn đối với chúng ta hiện
nay” - Chủ tịch nước chia sẻ. “Sau khi lắng nghe những phát biểu nói lên
kỳ vọng của các thành viên trong gia đình GS-TS Phan Thị Tươi, Chủ tịch
nước nói: “Từ trước đến nay, chúng ta có “cái bệnh” rất lớn là không
dám nói lên sự thật. Hôm nay nghe đồng chí bí thư chi bộ khu phố nói,
tôi thấy đấy là sự thật, một sự thật ở ngay trong dân. Chắc chắn người
dân đã gửi gắm rất nhiều vào đồng chí bí thư, nên hôm nay tôi mới nghe
được gửi gắm của dân mong muốn mỗi cán bộ, đảng viên phải làm đúng những
gì đã nói. Đây là tiếng nói của lòng dân, Đảng hiểu dân nói mới là
thước đo niềm tin chính xác nhất. Nhiều cán bộ không muốn nghe sự thật
và không dũng cảm nói lên sự thật là vì lợi ích...” (hết trích - chữ in
đậm do TMH nhấn mạnh) Có lẽ, từ ngày đảng cộng sản Đông Dương (nay là
đảng cộng sản Việt Nam) nhảy ra cướp chính quyền từ tay chính phủ Trần
Trọng Kim ngày 19-8-1945, chưa từng có một vị lãnh tụ nào dũng cảm đứng
ra nói với toàn thể đồng bào trong ngoài nước về CÁI BỆNH RẤT LỚN của
những người cộng sản là CĂN BỆNH DỐI TRÁ (tức: “không dám nói lên sự
thật”) như ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang trong dịp tết Quý Tị này
như vừa dẫn: “CHÚNG TA CÓ “CÁI BỆNH RẤT LỚN LÀ KHÔNG DÁM NÓI LÊN SỰ
THẬT” Xin xem định nghĩa đại từ CHÚNG TA trong từ điển: “Chúng ta: Bản
thân mình cùng với người đối thoại: Chúng ta đi đâu bây giờ, vì tương
lai con em chúng ta” (Đại từ điển tiếng Việt - NXB Văn hóa – Thông tin-
1999, trang 400) Như vậy, hàm nghĩa từ CHÚNG TA nơi câu nói của chủ tịch
nước Trương Tấn Sang bao gồm chính ông và vợ chồng người đảng viên ông
đến thăm, nói rộng ra là chính chủ tịch nước và tất cả mọi người Việt
Nam đọc báo đều cùng mắc cái bệnh rất lớn là bệnh dối trá này. Nhưng đa
số nhân dân đâu có cơ hội để mắc bệnh này, vì họ, tức nhân dân, tức
người dân thường, tức tư nhân không có quyền ngôn luận, tức không có
quyền ra báo. Chỉ có đảng cộng sản Việt Nam, người tự xưng là đày tớ của
nhân dân mới có quyền phát ngôn trên 700 tờ báo nói, báo viết, báo hình
mà thôi. Cho nên từ “chúng ta” trong nội hàm của câu nói trứ danh này
của ông Trương Tấn Sang chính là nhằm nói rằng: hệ thống cầm quyền, hệ
thống chính trị tức đảng cộng sản Việt Nam đã, đang mắc CÁI BỆNH RẤT LỚN
LÀ KHÔNG DÁM NÓI LÊN SỰ THẬT. Mà không dám nói lên sự thật chính là
“cái bệnh rất lớn” nói dối vậy. Nếu câu nói này (chúng ta có cái bệnh
rất lớn là không dám nói lên sự thật) phát ra từ một người bất đồng
chính kiến thì chắc sẽ bị công an bắt giam vì điều 88: tuyên truyền nói
xấu chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng khi câu nói RẤT CHÍNH XÁC này phát ra
từ miệng vị chủ tịch nước Trương tấn Sang lại là một vấn đề không nhỏ,
không phải nói để chơi. Đó là nhận thức quan trọng nhất mà một lãnh tụ
đảng cộng sản Việt Nam - ông Trương Tấn Sang - đã dũng cảm nói lên sự
thật rất đáng buồn rằng: hệ thống cầm quyền của những người cộng sản là
một hệ thống thiếu trung thực, lấy sự dối trá làm bản chất. Trần Mạnh
Hảo Nhà thơ Trần Mạnh Hảo Ai ai trong thế kỷ thứ 21 này cũng đều biết
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản của C.Marx và F. Engel bắt nguồn
từ chủ nghĩa xã hội không tưởng của các nhà triết học tiền Mác-xít:
Saint Simon, Charles Fourier, Robert Owen... là những hệ thống xã hội
không tưởng, ảo tưởng, không có thật, bịa đặt... Một xã hội xã hội chủ
nghĩa tiến tới thiên đường cộng sản là một xã hội phi lý, phi nhân - nơi
chỉ có cái thiện mà không có cái ác, chỉ có cái tốt mà không có cái
xấu, chỉ có cái thật mà không có cái giả, tức là một xã hội phi biện
chứng. Trong xã hội giả tưởng đó, người ta sống theo nguyên tắc vô cùng
phi lý: làm theo năng lực (có hạn) hưởng theo nhu cầu (vô hạn). Trong xã
hội bịa đặt phi biện chứng đó, nhà nước bị triệt tiêu, biên giới Việt
Nam và Trung Hoa bị xóa bỏ (tất nhiên Việt Nam sẽ thành quận huyện của
Tàu, đó là xã hội cộng sản hay sao?). Ở Cái xã hội bịa đặt khủng khiếp
có tên là xã hội chủ nghĩa, xã hội cộng sản ấy, quyền tư hữu bị xóa sổ,
cá nhân bị xóa sổ, nhân tính bị xóa sổ, gia đình bị xóa sổ, quốc gia bị
xóa sổ, tôn giáo bị xóa sổ, cái riêng bị xóa sổ, đất nước bị xòa sổ, dân
tộc bị xóa sổ... Liên Xô sau 74 năm đi tìm cái xã hội chủ nghĩa không
tưởng mà tìm mãi không thấy, chỉ thấy cả đất nước rộng bằng một phần sáu
địa cầu biến thành trại tập trung với máu và nước mắt, với gần 100
triệu người bị giết hại vì lý thuyết đấu tranh giai cấp duy ác Mác-Lê...
Nay Liên Xô đã quay lại con đường tư bản chủ nghĩa để đi cùng đường với
nhân loại... Trung Quốc đã từ bỏ chủ nghĩa xã hội dã man từ năm 1978 để
xây dựng xã hội theo mô hình tư bản, mô hình thị trường; nhưng vẫn mạo
danh xã hội chủ nghĩa để đỡ bẽ mặt vì Trần Độc Tú, Cù Thu Bạch, Mao
Trạch Đông đã sai lầm vô hạn khi áp dụng chủ thuyết duy ác Mác-Lê vào
Trung Quốc. Đại hội đảng cộng sản Trung Quốc cuối năm 2012 đã không còn
nhắc đến Mác-Lê-Mao... Đảng cộng sản Pháp trong đợt đại hội cách đây mấy
ngày, đã good bye cờ búa liềm là cờ của nước Liên Xô trước đây... Việt
Nam do đảng cộng sản lãnh đạo từ năm 1986 đã chôn chủ nghĩa xã hội để
xây dựng chế độ tư bản nhưng vẫn còn giữ cái đuôi dối trá rất vô nghĩa
là “ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA”... Mùa tết năm nay, qua lời thú nhận
của chủ tịch nước Trương Tấn Sang về hệ thống xã hội cộng sản của ông và
các ông vốn là một hệ thống dối trá “KHÔNG DÁM NÓI LÊN SỰ THẬT” chính
là cuộc thay đổi tư duy đáng trân trọng của giới lãnh đạo Việt Nam...
Khi cả thế giới đều biết chủ nghĩa xã hội kiểu quốc tế ba của Mác-Lê là
một chủ nghĩa ảo, một học thuyết bịa đặt, dối trá từng giết hại hàng
trăm triệu người trên thế giới thì khi đất nước Việt Nam thân yêu của
chúng ta lại phải mang cả khối dối trá trên mình, liệu có trung thực, có
đúng đắn hay không: “CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM”. Chủ nghĩa xã
hội = sự không có thật, chẳng lẽ quốc hiệu của ta lại ra thế này ư: CỘNG
HÒA KHÔNG CÓ THẬT VIỆT NAM”? Từ sự nhận thức trên mang tính cách mạng
của chủ tịch nước Trương Tấn Sang, chúng tôi hi vọng đảng cộng sản Việt
Nam sẽ nhanh chóng từ bỏ những khái niệm dối trá, chủ nghĩa dối trá để
trở về đi cùng đường với dân tộc và nhân loại. Lãnh đạo Việt Sâu Dũng,
Tư Sang, Hùng hói, Trọng Lú Lãnh đạo Việt luôn nói dối? Chúng tôi xin
trích hai đoạn ngắn trong bài viết của mình năm 2010: “Chỉ có sự thật
mới giải phóng con người, giải phóng văn học và đất nước” (2) (là tham
luận của TMH trong đại hội nhà văn Việt Nam, nhưng không được phép đọc,
đã post lên mạng trước đại hội) làm phần kết của bài viết này: “Nếu Đảng
Cộng sản và nhà nước Việt Nam thử một lần hợp tác với đất nước, với dân
tộc Việt Nam mở HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG CHỐNG GIẶC NÓI DỐI để tìm ra con
đường cứu nguy dân tộc đang trên đà suy vong, thì công này của quý vị
rất lớn. Ông cha chúng ta đã đánh thắng giặc Hán, Đường, Tống, Nguyên,
Minh, Thanh… để bảo tồn đất nước. Tất cả các thứ giặc trên cộng lại cũng
không ghê gớm bằng giặc nói dối đang tàn phá Tổ quốc ta, giống nòi ta.
Lần này, nếu nhân dân ta không vùng lên đáng tan BỌN GIẶC CÓ TÊN LÀ DỐI
TRÁ, chắc chắn đất nước ta sẽ bị kẻ thù phương Bắc nuốt chửng, như mấy
nghìn năm trước chúng đã nuốt chửng toàn bộ các dân tộc Bách Việt từng
định cư lâu dài phía nam sông Dương Tử…. ...Một kẻ nói dối, một dân tộc
nói dối “lộng giả thành chân”, là một kẻ, một dân tộc không có tự do,
không có độc lập, không có dân chủ, không có chân lý và lẽ phải… Khi một
kẻ, một dân tộc phải núp vào sự dối trá để tồn tại, kẻ đó, dân tộc đó
là một kẻ yếu, một dân tộc yếu đang trên đường suy vong. Chỉ có kẻ mạnh,
kẻ tự tin, kẻ có liêm sỉ, có đạo đức mới không sợ sự thật, dù là sự
thật đau đớn nhất, khủng khiếp nhất mà thôi.” Từ nhận thức rằng hệ thống
chính trị của đảng cộng sản Việt Nam là một hệ thống “KHÔNG DÁM NÓI LÊN
SỰ THẬT”, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đi một bước cách mạng đột
phá, đưa đảng cộng sản Việt Nam tiếp cận dần sự thật để dám từ bỏ cái
chủ nghĩa dối trá là chủ nghĩa xã hội. Chúng tôi xin chép lại lời của
đại văn hào Pháp V. Hugo để tặng ban lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam,
những người đã dám dũng cảm cứu nguy dân tộc bằng cách chôn chủ nghĩa xã
hội từ năm 1976 (chủ nghĩa Marx thực chất là một chủ thuyết về kinh tế)
để xây dựng kinh tế thị trường- kinh tế tư bản: “CÁCH MẠNG LÀ CUỘC TRỞ
VỀ TỪ CÁI GIẢ ĐẾN CÁI THẬT”.
Sài Gòn 15-02-2013
Sài Gòn 15-02-2013
No comments:
Post a Comment