Hai bài viết từ tromg nước...
1.- Lê Phong Lan và đồng bọn có còn là con người nữa không? của Nguyễn Thu
Trâm...
Tội Ác Mậu Thân 1968 của Việt cộng...
Tội Ác Mậu Thân 1968 của Việt cộng...
Nói về sự dối trá,
lừa bịp vô liêm sĩ, khi Lê Phong Lan và tập đòan vẹm cho rằng vụ thảm sát Mậu
Thân 1968 ở Huế là do bom đạn của Hoa Kỳ và VNCH gây nên..
Được biết bộ phim tài liệu “Mậu Thân 1968” của đạo diễn Lê Phong
Lan, dài 12 tập do Trung tâm Phim tài liệu và Phóng sự (Đài THVN) phối hợp với
Hãng phim Truyền hình Bản sắc Việt sản xuất (thời lượng 30 phút/tập).
2.- Tiếng hát hòang hôn của Nguyễn Thị Hàm Anh...
Chuyện thật, ít được nghe nói về việc ca hát trong nước, của các ca sĩ từ hải
ngoại trở về... Đúng là những tiếng hát hòang hôn...Hết thời rồi...
Chuyện thật, ít được nghe nói về việc ca hát trong nước, của các ca sĩ từ hải
ngoại trở về... Đúng là những tiếng hát hòang hôn...Hết thời rồi...
Xin mời Qúy Vị đọc hai bài viết...để tường và thẩm định..
Lê Phong Lan và đồng bọn có còn là con người nữa
không?
© Nguyễn Thu Trâm
Dối trá, bịp bợm vốn là thói thường của cộng sản bởi cộng sản
nghĩa là tội ác mà tội chỉ có thể được che đậy với một lời nói dối, và lời nói
dối chỉ có thể được duy trì nhờ tội ác. Và phàm kẻ nào từng đem tội ra làm
phương thức để đạt đến cứu cánh thì chắc chắn sẽ buộc phải lấy dối trá làm
nguyên tắc. Chính vì vậy mà thế gian chẳng ai còn xa lạ gì sự dối trá của cộng
sản. Dẫu vậy người Việt Nam nói chung và người dân Huế nói riêng vẫn không thể
không phẫn nộ trước sự dối trá quá trắng trợn và ngang ngược của đạo diễn Lê
Phong Lan và tập đoàn cộng sản Việt Nam qua bộ phim “GIẢI MÃ MẬU
THÂN” hiện đang trình chiếu trên hệ thống truyền hình nhà nước để bóp
méo hoàn toàn một sự thật lịch sử về tội ác của cộng sản họ đã ra tay sát hại
hơn 7.000 đồng bào Huế một cách vô cùng man rợ bằng cách đập đầu và chôn sống
trong biến cố Tết Mậu Thân 1968, khi cộng sản đồng lọat tấn công các đô thị miền
Nam và chiếm đóng thành phố Huế trong 26 ngày đêm, mà phía cộng sản Bắc Việt gọi
là “Cuộc Tổng Công Kích và Tổng Nổi Dậy Của Đồng Bào Miền Nam”. Chỉ với tên gọi
cái biến cố thôi cũng đã thể hiện quá rõ bản chất bịp bợm ăn ngang nói ngược của
cộng sản bởi thực tế là có cuộc tổng công kích của cộng quân bắc Việt khi Hồ Chí
Minh và tập đoàn cộng sản Bắc Việt đã bội ước về lệnh hưu chiến 48 giờ để cho
đồng bào hai miền được vui xuân đón tết, nhưng tuyệt nhiên không hề có “cuộc
tổng nổi dậy” của nhân dân miền Nam, ngoài một số ít trí thức xuẩn động ăn cơm
quốc gia thờ ma cộng sản ra, còn lại toàn thể người dân miền Nam thì kinh tỡm
cộng sản như thế giới loài người từng kinh tỡm bệnh dịch hạch, bởi người dân Nam
đã từng chứng kiến hơn 1.000.000 đồng bào Bắc Kỳ đã phải bỏ lại ruộng vườn, nhà
cửa di cư vào Nam vào năm 1954 để lánh nạn cộng sản, cho nên không thể có chuyện
đồng bào miền Nam tổng nổi dậy, và đó cũng chính là lý do mà cộng sản Bắc Việt
đã trả thù nhân dân bằng cách nã đạn pháo một cách hết sức bừa bãi vào cán khu
dân cư, gây thương vong cho hơn 14.000 đồng bào miền Nam, trong đó hơn 7.000
đồng bào Huế đã bị thảm sát một cách dã man mà phần lớn là chôn
sống.
Ấy vậy mà đạo diễn Lê Phong Lan lại dám ăn ngang nói ngược rằng:
“Có một động lực vô hình nào đó thôi thúc tôi đi tìm hiểu về chiến dịch Mậu
Thân năm 1968. Trong quá trình đi tìm tài liệu, đi tìm những nhân vật là chứng
nhân lịch sử của cả hai chiến tuyến, tôi đã nhìn thấy những tấm ảnh tư liệu ghi
lại hình ảnh chiến sỹ giải phóng của ta hy sinh như thế nào, đổ xương đổ máu ra
sao… Tôi không tin những người lính ấy lại có thể tạo ra những cuộc thảm
sát.”
“Lịch sử đã trải qua 45 năm, thời gian đã có đủ độ lùi để
chúng ta nhìn nhận lại về chiến dịch Mậu Thân năm 1968. Thời thế đã đổi thay.
Tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta nói chuyện với nhau thật thẳng thắn về tất cả những
câu chuyện xảy ra từ 45 năm trước. Trong 10 năm ròng, tôi đã đi, đã tìm kiếm, đã
gặp gỡ, phỏng vấn, để xây dựng nên 12 tập phim tài liệu về chiến dịch Mậu Thân
năm 1968. Tôi gặp gỡ cả những người lính ở hai chiến tuyến, tôi gặp gỡ hỏi
chuyện cả những người chỉ huy ở cả hai chiến tuyến. Ở cấp chỉ huy, ở cấp lính,
mỗi người đều có cái nhìn khác nhau về cuộc chiến. Suốt 10 năm tôi đi và đi,
phỏng vấn và phỏng vấn… Và tôi nghĩ, 12 tập phim tài liệu xây cất trong 10 năm
ròng của tôi sẽ giúp khán giả giải mã được sự thật còn gây tranh cãi của chiến
dịch Mậu Thân năm 1968.”
“Tôi đã gặp những nhà báo Mỹ, những người lính bên kia chiến
tuyến, họ đã nói, tất cả những thông tin về vụ thảm sát năm 1968 tại Huế chỉ là
sự vu cáo của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa đổ lên đầu Quân Giải phóng
miền Nam Việt Nam. Để khỏa lấp cho sự thất bại nặng nề, phía Mỹ và Việt Nam Cộng
hòa đã phát động những tin đồn nhảm gây nhiễu loạn như một cuộc chiến tranh tâm
lý, và nó đã kéo dài trong một thời gian. Nhưng sự thật là sự thật. Chiến dịch
Mậu Thân trải qua thời gian càng khẳng định là bản anh hùng ca vĩ đại của quân
dân Việt Nam.”
Thật là ngang ngược đến mức không thể nào ngang ngược hơn được
nữa! Những nhân chứng sống của vụ thảm sát vẫn còn đó. Những kẻ tội đồ, trực
tiếp tắm máu đồng bào Huế là Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn
Đắc Xuân, Nguyễn Thị Đoan Trinh… vẫn còn đó sao lại dám ca ngợi “Chiến Thắng Mậu
Thân” và đổ vấy cái chết oan nghiệt của hơn 7.000 đồng bào Huế cho bom đạn cho
trọng pháo của Mỹ từ Hạm Đội 7 bắn lên? Lê Phong Lan đã phỏng vẫn những ai, sao
không phỏng vấn Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan Trinh về
việc hành quyết sinh viên Trần Mậu Tý và cả gia đình các sinh viên Nguyễn Xuân
Kính, Nguyễn Xuân Lộc, Nguyễn Thanh Hải và Lê Tuấn Văn cùng ông nội của họ là
ông Nguyễn Tín đã ngoài 70 tuổi? Lê Phong Lan đã đi phỏng vấn những đâu, Sao
không về phỏng vấn những cư dân ở cửa Đông Ba, ở Khu Gia Hội, ở Bãi Dâu, Cồn
Hến, Vỹ Dạ, Xuân Ổ, Xuân Đợi, Hòa Đa, Phú Thứ, Đông Di, Tây Hồ, sao không phỏng
vấn bà con ở An Cựu, ở Phường Vĩnh Lợi, ở xứ Phủ Cam nay là phường Phước Vĩnh để
nghe về những vụ hành quyết tập thể những nạn nhân tại Dòng Chúa Cứ Thế hay ở
Nhà Thờ Phủ Cam, để nghe vè những hố chôn tập thể mà có những hố dài được tìm
thấy cả ngàn bộ hài cốt mà phần lớn nạn nhân đều bị đánh vỡ sọ hay những bộ hài
cốt vẫn còn bị trói dính chum với nhau bằng dây điện thoại nhưng tuyệt nhiên
không hề có một chiếc nón tài bèo, nón cối, dép râu hay bất cứ một quân trang
nào của cộng quân Bắc Việt tại những hố chôn tập thể này.
Chắc chắn rằng những oan hồn
của Mậu Thân Huế vẫn chưa thể nào được yên nghỉ, được tiêu diêu khi mà phía nhà
cầm quyền cộng sản Bắc Việt vẫn chưa có một lời tạ tội, huống chi lại có một bộ
phim thay đen đổi trắng hoàn toàn về sự thật lịch sử này. Xuống tay sát hại hơn
7.000 đồng bào vô tội trong những ngày vui Xuân đón Tết là một tội ác trời không
dung, đất không tha. Việc dàn dựng một bộ phim để bóp méo sự thật, để đổi trắng
thay đen, để phủ nhận hoàn toàn tội ác của những kẻ thủ ác lại là một sự man rợ
đáng kinh tỡm nhất trong thế giới loài người. Việc làm đó của Lê Phong Lan cùng
những lời nói ngang ngược của y thị khiến chúng tôi phải đặt câu hỏi rằng liệu
Lê Phong Lan và đồng bọn có còn là con người nữa không? Và chúng tôi đang chờ
lời phúc đáp của Lê Phong Lan cùng đồng bọn cho câu hỏi này.
Ngày 18 tháng 02 năm 2013
© Nguyễn Thu
Trâm
****************************** *******
Tiếng hát hoàng hôn
Anh chị tôi rủ đi nghe
nhạc. Có hai ca sĩ hải ngoại mới về, Duy Quang và Elvis Phương. Hai ca sĩ cũ
nổi tiếng từ xa xưa, một thời của quá khứ không mơ hồ... Sau này, qua băng đĩa
lưu hành lậu, những giọng hát ấy vẫn khiến người nghe thấy lòng nức nở khi cất
lên những bài tình ca bất hủ. Có rất nhiều tình ca do nhạc sĩ VN sáng tác lúc
này hay lúc khác, nơi nọ hay nơi kia. Nhưng đặc biệt, tình ca trong quãng thời
gian hai mươi năm đó đã đạt đến đỉnh cao cả về số lượng lẫn chất lượng, là một
phần lộng lẫy trong gia tài âm nhạc Việt Nam.
Tuy nhiên, những bài hát
từng đưa họ lên đỉnh cao danh vọng, đậu lại trong lòng người nghe thì bị cấm,
không được hát dù nội dung chỉ ca tụng tình yêu. Đêm nhạc được tổ chức dưới tên
L’histoire d’un amour, tức họ xuất hiện chỉ để trình diễn nhạc tình Pháp. Bởi
vì nhạc Pháp có vẻ vô hại, nhạc tình của Pháp lại càng vô hại hơn. Thính giả
chỉ thưởng thức nhạc, chẳng mấy ai biết đến lý lịch của các nhạc sĩ sáng tác ra
những bài hát đó. Và lý lịch của các nhạc sĩ viết tình ca này hẳn nhiên “trong
sạch”!
Hai đêm nhạc được quảng
cáo trước cửa phòng trà và dân hoài cổ truyền miệng nhau đi xem. Nói đi xem có
vẻ chính xác hơn đi nghe bởi người ta vẫn thường nghe hai giọng ca này qua đĩa
và thấp thoáng đâu đó qua vidéo nên không tới nỗi lạ lẫm. Vả lại nhạc nghe qua
đĩa dĩ nhiên hay hơn vì âm thanh phòng trà thường rất chát chúa, chói tai. Do
vậy chính đi là để nhìn hai ca sĩ bằng xương bằng thịt giờ đây thế nào, có thay
đổi nhiều so với ngày xưa chăng. Đi xem họ hát như thể nhặt nhạnh chút gì của
một thời xa xưa bỗng nhiên rơi rớt lại, quay về những kỷ niệm bị lãng quên, lục
lọi tìm một mảnh của chính mình bị cất dấu, ẩn nấp trong xó xỉnh đâu đó phủ đầy
bụi bặm, nấm mốc của thời gian lạnh lùng.
Elvis Phương về nước từ
trước, đã hát rải rác chỗ này chỗ nọ nhưng đây là lần đầu tiên Duy Quang xuất
hiện trước công chúng. Hai ca sĩ này chỉ hát trong hai đêm nên chị tôi phải gọi
điện thoại đặt chỗ trước, hôm sau họ sẽ chuyển sang nơi khác. Nhớ hồi ca sĩ
Giao Linh mới xuất hiện cách đây mấy năm. Khi ấy ca sĩ hải ngoại về nước rất ít
nên bà được đón tiếp nồng nhiệt. Người ta hào hứng đi xem nguời ca sĩ khi xưa
có mái tóc đặc biệt một bên cúp vào, một bên cong ra. Điều gì xa xôi, chỉ nghe
tiếng đương nhiên rất tò mò muốn thấy hình. Thế nhưng chỉ sau một thời gian rất
ngắn được ngự trị ở vài phòng trà trung tâm thì với mấy bài hát ma-ri hết hơi,
Giao Linh cùng Tuấn Vũ mau chóng bị dạt ra cho tới khi tên của hai ca sĩ này
xuất hiện trên mấy tấm banderole ở rạp Hào Huê, Chợ Lớn và các quán ăn tầm tầm
thì kể như vị trí của họ tắt ngúm nơi thành phố. Hương Lan cũng vậy, giọng hát
ngọt ngào của ca sĩ này từng lay động lòng người xa xứ với các bài hát mang âm
hưởng dân ca, nhưng chính ngay trên quê hương thì đâu có ai hoài hương để lúc
nào cũng sẵn sàng rung động trước mấy bài hát bông bầu, bông bí. Không kể vô
vàn người hát trong nước nổi tiếng hoặc không nổi tiếng, đều hát ngọt như vậy
hoặc hơn vậy, hát những bài như thế và vô số bài mùi mẫn hơn thế, nên chi Hương
Lan thỉnh thoảng cũng xuất hiện trên TV trong một chương trình ca nhạc lem nhem
nào đó mà không hề ai để ý đến.
Tiếng tăm của hai ca sĩ
hải ngoại Duy Quang và Elvis Phương này có phần nổi trội bởi lẽ thức uống đều
tính phụ thu khá cao. Chỉ những ca sĩ ngôi sao mới có phần phụ thu này. Đêm
nhạc tình Pháp bắt đầu. Những bài hát của một thời hoàng kim xa lơ xa lắc được
các ca sĩ trẻ hoặc không nổi tiếng lắm hát trước. Aline lầu tình trên cát, Les
flots du Danube, L’amour c’est pour rien, Apres toi, Bang bang... Một ca sĩ tên
Quang Vượng hát rất hay. Rồi Duy Quang bước ra sân khấu. Biết là đêm nhạc Pháp
nhưng dường như trong lòng mọi người vẫn mong mỏi một chút “xé rào” để nghe
phảng phất những âm giai mơ mòng phổ thơ Tuệ Mai. Thôi bàn học cũ. Sách vở
từng năm. Nhớ người tóc xõa. Ôn bài dưới trăng. Thôi chăn gối lẻ. Gửi lại
giường xưa. Hương đào ngây thơ. Ủ giùm cho nhé... hoặc da diết đến nao
lòng. Người từ trăm năm. Về khơi tình động. Ta chạy vòng vòng. Ta chạy mòn
chân. Nào có hay đời cạn. Nào có hay cạn đời... Có vẻ một người từ trăm năm
về thật nhưng hình ảnh không đẹp như lời thơ Nguyễn Tất Nhiên. Duy Quang đứng
xa trên sân khấu, đầu như hơi hói, tóc như nhuộm nâu, lưng như hơi gù, cổ đưa
ra phía trước và một bàn tay buông thõng. Bà chị chắc lưỡi kêu tướng mạo Duy
Quang coi chán đời quá, ông anh lắc đầu nói thì soi gương thử xem, bà tưởng mới
vài năm phù du trôi qua sao, ngồi quanh đây “đời đã xanh rêu” cả, nào có
ai khá hơn ai. MC luôn luôn ra rả giới thiệu khán giả của phòng trà hôm nay
toàn những mái đầu bạc rất quen thuộc với ca sĩ và những bản nhạc của thập niên
được trình bày đây. Bà chị lại rên rỉ. Nhìn chút coi, ngoại trừ vài vị ở độ
tuổi ngoài tám mươi mới bày tóc bạc. Còn lại đều đen nhánh, toàn người trăm năm
không phai tóc nhuộm, bói không ra một cọng sương sương. Đám trẻ loe hoe tưởng
có chi lạ ngồi đến giữa chương trình bỏ về hết. Số người ráng ngồi đến cuối
buổi là biết niên kỷ bao nhiêu rồi. Tên MC thật không biết điều, cứ lôi tuổi
tác người ta ra “bêu riếu”, về hưu sớm sớm cho được việc!
Duy Quang hát lời Việt
của ba bốn bản nhạc Pháp. Rõ ràng Duy Quang được nhắc tới bởi rất thích hợp với những bài thuộc loại Đưa
em về dưới mưa. Nói năng chi cũng thừa... hay Này cô em Bắc
kỳ nho nhỏ. Này cô em tóc demi gacon. Chiều hôm nay đón gió. Cô có tình
cờ nhìn thấy anh... Chắc ca sĩ này biết rõ chỗ yếu của mình nên mau chóng
rút lui nhường phần cuối cùng chương trình cho Elvis Phương.
Nổi danh hồi nào trong
ban nhạc Phượng Hoàng, vốn học trường Tây nên dĩ nhiên ca sĩ này hát đúng giọng
Pháp. Tuy nhiên Elvis Phương không phải là người duy nhất hát nhạc Pháp đúng
giọng, lại càng không phải người hát nhạc Pháp đúng giọng hay nhất. Khán giả
cũng không phải tất cả đều am tường để mê nhạc Pháp. Nhạc ngoại quốc không mau
chóng và dễ dàng đi ngay vào lòng người như Ngựa hoang nào dẫm nát tơi bời.
Đồng cỏ nào xanh ngát lưng trời... Ngày nào bầu trời còn mây bay. Lòng ta
vẫn thấy yêu thương hoài... Tôi muốn làm một thứ cỏ cây. Vui trong nắng và quên
ưu phiền... Đối với đa số, nghe loại nhạc như vậy hiểu liền và thấm liền,
quan trọng hơn hết, mới thấy đó là Elvis Phương của họ, ca sĩ thủa nào của đám
đông khán giả thủa nào!
Vì thế mặc dù nhạc Pháp
đúng giọng và hát hay, nhưng khán giả vẫn thấy điều đó không đủ, chưa đúng. Mọi
người ngồi nghe một cách kiên nhẫn, ngán ngẩm ngắm người ca sĩ la hét, gào rú,
nhảy nhót liên tục mười mấy bài trên sân khấu mà chẳng thưởng thức bao nhiêu,
chỉ thấy... thương thương gì đâu! Elvis Phương cố gắng giữ gìn phong độ và khán
giả thừa nhận ca sĩ này vẫn còn phong độ. Tuy nhiên, đừng tỏ ra, đừng cố gắng
chứng minh một điều gì cả thì tốt hơn. Bởi vì trong chữ “vẫn”, trong sự cố gắng
đó đã hàm ý vớt vát, pha vào điều gì chua chát rồi. La hét, nhảy nhót quá chừng
dành cho choi choi đi. Khán giả không đợi xem màn đó. Thấy ca sĩ trình diễn
trên sân khấu mà bắt mệt. Cả ca sĩ và khán giả đều là người từ trăm năm,
lắng dịu một chút thì hay hơn, nhất là hầu hết mọi người đến đây chỉ muốn gặp
Elvis Phương để hoài niệm, không phải để sôi sùng sục trong điệu rock mà họ đã
quá mệt mỏi nơi cuộc sống hàng ngày. Họ sẽ chọn để nghe rock ở một phòng trà
với khung cảnh và không khí khác, với những ca sĩ khác chứ không phải ca sĩ
này.
Dường như chịu hết nổi,
khán giả yêu cầu nhạc Việt. Ngập ngừng một chút, Elvis Phương hát một bản nhạc
xưa, quá xưa chắc hồi chưa sinh ra đời nên không cách nào tôi nhớ được tựa.
Không khí phòng trà nóng hẳn lên, mọi người nghe một cách hào hứng, vỗ tay rào
rào chứ không phải vỗ tay vì lịch sự. Hết bài, vài giọng la lên hát nhạc Việt
đi, rõ ràng ai nấy nóng lòng mong chờ âm điệu dạt dào của những bài tình ca
quen thuộc. Ca sĩ lại hát một bài ngày xưa... Thanh Thúy thường hát. Khán giả
có chiều thất vọng, nhưng biết sao, thôi thì nghe đỡ một hai bài như vậy còn
hơn đi về không được bài nào như ý. Chỉ hai đêm nhạc thôi chứ kéo dài cũng
chẳng ai đi lần thứ hai.
Đúng là biết sao. Bởi vì
với nhạc ngoại quốc còn có thể tổ chức được vài đêm hát chứ bông bầu, bông
bí... thì ai thèm đi. Bà chị than đi nghe hát như tới gặp người tình xưa, mới
vỡ lẽ người tình thương nhớ thực sự chỉ tồn tại trong ký ức, là hình ảnh mơ hồ
chìm vào kỷ niệm. Thời gian như dừng hẳn từ lần cuối cùng chia tay đó, giờ nhìn
lại thất vọng não nề và giấc mơ dài theo năm tháng bỗng phút chốc vỡ tan thành
bọt bóng!
Thật ra số tuổi của họ
vẫn còn hát lâu dài, chưa phải muộn, chưa đến lúc rời sân khấu. Nhưng cách họ
quay về, cách xuất hiện sau một thời gian quá dài vắng bóng khi trong lòng
người hâm mộ chỉ giữ hình ảnh ngày cũ, và lưu giữ giọng hát của họ không thay
đổi qua băng đĩa. Sóng đời đã xô nhiều đợt đổi thay. Những con người thật sự
sao chỉ hiện ra trên tấm phông nhạt và chính họ gợi nên vẻ gì gượng gạo, Ánh
sáng hắt ra là ánh hồi quang dù rực rỡ vẫn chỉ là vạt nắng níu kéo của buổi tà
dương.
Người ca sĩ không thể hát một mình
đối bóng. Họ cần sân khấu và ánh đèn, cần khán giả nên chi có một phòng trà
được mở ra ở Saigon dành cho các ca sĩ qua thời. Có thể tìm thấy Hồng Vân, Lan
Ngọc... và một số ca sĩ sau này như Nhã
Phương... Phòng trà tuy cũng đèn đuốc xanh đỏ nhưng sàn nhà ciment và một bà
quản lý mập mạp mặc đồ bộ, tay cầm quyển sổ nhỏ đi tới đi lui dòm ngó, chỉ huy
mọi việc. Phòng trà chia thành hai gian. Gian ngoài sôi động hơn một chút, gian
trong trầm lắng với những nhạc sĩ tóc trắng như bông chơi đàn với tất cả sự mê
say, nâng niu và vội vã vì thời gian được cầm lấy cây đàn đang dần dần co lại,
sợi dây đàn sẽ đứt lúc nào không biết để thanh âm nao nức sẽ im bặt trên chiếc
bục trống vắng. Nên dưới không khí rất thân thuộc đó là sự hiu hắt khiến lòng
người tự nhiên chùng xuống.
Saigon có số lượng thính
giả đông đảo hơn hải ngoại. Vì thế ca sĩ cũ hải ngoại về hát tìm lại vang bóng
là điều đương nhiên. Nhạc sĩ Phạm Duy cũng thế. Ông mơ ước sống lại ánh hào
quang rỡ ràng của thời gian ba mươi năm xưa kia, ông muốn quay về nhằm mục đích
mưu sinh hay vì lý do nào khác không rõ. Chỉ có điều những câu tuyên bố quỵ lụy
của ông khiến mọi người ngỡ ngàng. Thật ra từ cách đây vài năm, nhạc của ông đã
được phát qua băng đĩa khá nhiều tại các quán cà phê. Nhạc cổ điển, nhạc
Jazz... kén chọn thính giả, thường chỉ tồn tại ở ít quán trong thành phố. Còn
hầu hết tình ca du dương trầm bổng nằm tại quán bar, cà phê. Để phân biệt “đẳng
cấp”, các quán lịch sự thường chỉ chơi “nhạc Trịnh”, nhưng quanh đi quẩn lại
nghe hoài bấy nhiêu bài cũng phát chán. Về sau, gần đây, nhạc Phạm Duy đã từ từ
thay thế nhạc Trịnh. Trong không khí êm đềm của các quán nước tao nhã, người
nghe thả hồn vào thế giới ngập tràn những giai điệu và ca từ đặc biệt của Phạm
Duy. Tìm sâu trong muôn thủa, tìm sau lưng bốn mùa, tìm nhau như thiên cổ
tìm ngàn thu, gặp nhau trong hơi thở của cuộc đời... Quả Phạm Duy không cần
hạ mình đến thế. Giá trị âm nhạc của ông đã được khẳng định và không thể vùi
dấu mãi. Những bài hát đã vang lên trong các quán nhạc ở Saigon, Đà lạt, Nha
Trang... như mọi giá trị văn hoá đích thực khác sẽ tồn tại vĩnh viễn, đứng
ngoài mọi biến cố cuộc đời.
Hình như Phạm Duy không
biết đến điều đó, hay ông vẫn lo lắng bị bỏ quên, vẫn thấy... ngại, hay om sòm
vẫn được coi một trong những phương thức quảng cáo thông thường... Thôi thì dù
chưa bị đánh cũng xin hàng trước cho chắc ăn. Vả nếu tỏ ra nhu nhã như vậy, may
ra bài hát của ông sẽ được chính thức phổ biến rộng rãi. Ông sẽ xuất hiện, sẽ
ôm cây đàn hát không phải ở quán nước, phòng trà tẹp nhẹp mà trong những nhà
hát to lớn, mở những live show gây được tiếng vang ồn ào. Một giấc mơ quá đẹp
có thể giải thích phần nào cho thái độ lạ lùng đạp lên chính mình của ông. Đẹp
quá vì đó là một giấc mơ, và đến giờ giấc mơ vẫn chỉ là điều không tưởng.
Dẫu sao Phạm Duy quá mệt
mỏi để có thể chờ đợi lâu, tấm hình chụp trên báo cho thấy ông đã phải ngồi xe
lăn khi về tới phi trường. Thời gian của ông không còn bao nhiêu nữa. Ông trở
nên gấp rút, vội vã. Ông hối hả xưng tội, nghĩ ra tội để có cái mà hối lỗi. Có
còn kịp để ông được hát những bản nhạc của ông trước công chúng thành phố đông
đúc cuồng nhiệt như ông tưởng tượng không, bằng bất cứ giá nào? Nhiều người
không giận mà chỉ thấy dâng lên cảm giác ngậm ngùi về những cuộc sống mà hoàng
hôn đã mênh mông vây tỏa. Nắng úa tàn làm mờ nhòa, lầm lạc nhân ảnh. Một ngày
gần cạn, những sôi nổi của bình minh ấm áp, của trưa gắt nồng nàn đã qua đi.
Chỉ còn hoàng hôn nghỉ ngơi và tiếng hát vọng từ quá khứ dành cho sự trầm ngâm,
hồi tưởng.
Nguyễn Thị Hàm Anh
No comments:
Post a Comment