CA NHẠC
SÀI GÒN TRƯỚC 30/4/1975
Vừa rồi
Yên Huỳnh có post đến trang “Hồ Ngọc Cẩn Group” bài viết như dưới đây,
và alô hỏi tôi rằng, sao tác giả giống mày quá vậy Việt”. Thì nó chứ ai,
bây giờ thành Cao bồi Già khó nhận ra nhan sắc của gần 40 năm trước,
một thời tung hoành trong giới nghệ sĩ Ca Vũ Nhạc Kịch (trừ Cải Lương) ở
Sài Gòn thời gian trước ngày 30/4/1975.
Và không những chỉ có Yên Huỳnh mà vài bạn đọc cũng gửi bài này về đóng góp, có lẽ hoài cổ những ngày trước tháng 4/1975.
Bài
viết này trước đây tôi đã post trên trang web “Take2Tango” (trang web do
Thế Phương chủ trương, đã đột tử ở California vào cuối năm 2010, nên
nay trang web này đã ngưng hoạt động trên diễn đàn) và trang Blog “Văn
Nghệ người Sài Gòn” vào tháng 5 và 6 năm 2009, sau đó nhiều trang web,
blog ở hải ngoại lấy trích đăng. Nhân đây tôi xin post lại nguyên văn
bài viết :
Lời người viết :
Lâu
rồi các bạn bè thân hữu mỗi khi gặp tôi cứ hỏi “Liệu ông có viết lại
các mẫu chuyện về Ca Sĩ Sài Gòn trước năm 75 được không ?”. Bởi dù gì
ngày trước ở Sài Gòn tôi viết chuyên mục về điện ảnh tân nhạc cho nhiều
báo và tạp chí, mà nhật báo Trắng Đen với số bán chạy nhất thời đó là
chủ chốt; đồng thời cũng là một trong các sáng lập viên “Nhóm thân hữu
ký giả Điện ảnh Tân nhạc Việt Nam” (như Huy Vân TTK báo Tiền Tuyến tức
Binh Cà Gật, Nguyễn Toàn, Tương Giang, Phạm Hồng Vân, Phi Sơn….) thuộc
“thiên lý nhãn”…. trăm tai ngàn mắt thời đó.
Viết
về giới ca nhạc sĩ Sài Gòn thời trước 1975, là viết những chuyện đằng
sau hậu trường, những chuyện dính dáng vào đời tư nhưng không đến nỗi
phải bồi thường “một đồng danh dự”; có thể có những vụ việc đã từng được
đăng hoặc chưa được đăng trên báo, viết về người còn ở lại và người đã
xa quê hương, quả thật hết sức phức tạp ! Lý do “sự thật hay mích
lòng”, nhưng đã hơn 30 năm xin cứ coi đây là kỷ niệm, thật hư thế nào
chính người trong cuộc sẽ hiểu !…. Nhưng vì một lẽ giản đơn “không muốn
vạch áo cho gười xem lưng” đó thôi !?
Cuối
cùng, những phần hồi ký này chỉ trích đăng từng phần, nếu có dịp xin sẽ
viết tiếp… và viết ra để những người về sau tham khảo và biết về các
Nhạc Sĩ & Ca Sĩ trước 1975, đang ở VN, Hải ngoại đã thành danh như
thế nào. (NV)
CA SĨ SAIGON – XUẤT HIỆN TỪ ĐÂU ?
Nói đến
ca sĩ từ đâu đến hay nôm na từ đâu mà thành danh. Tôi chợt nhớ đến Chế
Linh đầu tiên, nhớ ngay cái ngày một thanh niên gốc Chàm khúm núm đến
gặp Tùng Lâm ở hậu trường rạp Olympic, một sân khấu đại nhạc hội do quái
kiệt Tùng Lâm tổ chức song song với Duy Ngọc ở bên rạp Hưng Đạo vào mỗi
sáng chủ nhật.
Tôi nhớ
buổi sáng chủ nhật hôm đó khi anh chàng da ngâm đen tóc quăn, ăn mặc
nguyên bộ đồ jean. Đến Tùng Lâm cũng không hiểu tại sao anh ta, một
người lạ mặt vào được tận bên trong hậu trường. Còn đang ngạc nhiên thì
anh chàng người Chàm đã tới gặp ngay Tùng Lâm xin cho được hát vào những
lúc ca sĩ còn chạy show chưa kịp đến.
Tùng
Lâm quyết liệt từ chối, dù lúc đó phải đóng màn chờ ca sĩ cũng không dám
cho anh chàng người Chàm này lên hát, một phần do anh ta là người dân
tộc thiểu số và cũng chưa từng nghe anh ta hát bao giờ.
Nhưng
kế tiếp những tuần sau, anh chàng người Chàm lì lợm vẫn đều đặn xuất
hiện xin Tùng Lâm cho được hát, và rồi Tùng Lâm cũng đành chào thua sự
lì lợm quá mức này, đành chấp nhận cho anh ta hát một bài để thử, với
lời dặn chỉ hát một bài và không có tiền “cát sê”
Tôi
chứng kiến các buổi anh chàng người Chàm đến và cả buổi đầu tiên được
Tùng Lâm cho lên hát một nhạc phẩm của Duy Khánh, với tên được giới
thiệu là Chế Linh. (nghệ danh này sau mới rõ nó có hai nghĩa, nghĩa thứ
thứ nhất là họ Chế để khẳng định là”con cháu” của Chế Mân, Chế Bồng Nga.
Nghĩa thứ hai có nghĩa là “lính chê” bởi người thiểu số được miễn hoãn
quân dịch).
Không
rõ Chế Linh có được học hát hay có thiên bẫm hát theo đĩa hay băng nhạc
mà nhiều nam nữ mầm non ca sĩ thường hát nhái đến thuộc lòng, đến khi
bài hát chấm dứt thì hàng loạt tiếng vỗ tay nổi lên tán thưởng kèm theo
những tiếng gào “bis, bis” nổi lên ầm ỉ nơi hàng ghế khán giả.
Nhưng
nhìn những người ái mộ vỗ tay gào thét kia lại chính là đồng hương của
Chế Linh, do chính Chế Linh bỏ tiền ra mua vé cho họ vào xem và chờ đợi
cái ngày hôm đó, để chỉ làm một động tác vỗ tay hoan hô và gào lên những
tiếng bis, bis.
Do
không được ai lăng xê, không được ai kèm cặp, Chế Linh thường hát nhái
theo giọng ca Duy Khánh và cả những bài hát tủ của Duy Khánh từng thành
đạt. Và nhờ những đồng hương hàng tuần đến vỗ tay, sau này Chế Linh được
Tùng Lâm nhận làm “đệ tử” trong lò đào tạo ca sĩ của mình (?).
Khi nói
đến những lò “đào tạo ca sĩ” thường là những nơi có môi trường “lăng
xê”, như nhạc sĩ Nguyễn Đức có hai chương trình trên Đài truyền hình số 9
là Ban Thiếu nhi Sao Băng và chương trình Nguyễn Đức, cùng hai chương
trình trên Đài phát thanh là Ban Việt Nhi, ban ABC. Còn quái kiệt Tùng
Lâm có Đại nhạc Hội, và chương trình Tạp Lục trên truyền hình. Nhạc sĩ
Nguyễn Văn Đông với đoàn văn nghệ Hoa Tình Thương của TC/CTCT mà Song
Ngọc đứng đầu tàu.
Đây là
những lò nhạc giới thiệu nhiều ca sĩ nhất trong thời gian đó. Như lò
Nguyễn Đức có một lô ca sĩ họ Phương gồm Phương Hồng Loan, Phương Hoài
Tâm, Phương Hồng Hạnh, Phương Hồng Quế, Phương Hồng Ngọc (Cẩm Hồng) hay
trước đó là Hoàng Oanh có cả nghệ sĩ hài như Thanh Hoài, Trần Tỷ.
Lò Tùng
Tâm giới thiệu Trang Thanh Lan, Trang Mỹ Dung, Trang Kim Yến rồi Chế
Linh, Giang Tử. Lớp nhạc Bảo Thu có Thanh Mai, Thanh Tâm sau này Kim
Loan; Hoàng Thi Thơ có Sơn Ca, Bùi Thiện, Họa Mi v.v…
Trở lại
với Chế Linh, tuy quái kiệt Tùng Lâm có môi trường “lăng xê” nhưng về
chuyên môn dạy thanh âm cho ca sĩ lại “mù tịt”; qua đó đã liên kết với
nhạc sĩ Bảo Thu và Duy Khánh đào tạo hay lăng xê Chế Linh trở thành một
danh ca như từng đào tạo lăng xê ra những Trang Thanh Lan, Trang Mỹ
Dung, Trang Kim Yến… Vì từ lò Bảo Thu (còn là ảo thuật gia Nguyễn
Khuyến) cùng Duy Khánh (khi đó ở chung cư Trần Hưng Đạo) đã cho “ra lò”
nhiều ca nhạc sĩ như Quốc Dũng, Thanh Mai, Thanh Tâm, Kim Loan…
Việc
liên kết giữa Tùng Lâm – Bảo Thu – Duy Khánh làm cho nhiều lò đào tạo ca
sĩ bấy giờ lên cơn sốt, bởi ở đây có đủ môi trường để các tài năng trẻ
thi thố tài năng, Tùng Lâm có sân khấu đại nhạc hội, Bảo Thu có chương
trình truyền hình; dạy thanh âm và cung cách biểu diễn. Chế Linh nhờ vào
“lò” Tùng Lâm mà thành danh cho đến ngày nay. Tuy nhiên ngoài những lò
“đào tạo ca sĩ” nói trên cũng có những ca sĩ thành danh từ những phòng
trà khiêu vũ trường, trong phong trào văn nghệ học đường, đại hội nhạc
trẻ, những đoàn văn nghệ do chính quyền thành lập. Như Vi Vân, Julie
Quang, Carol Kim, Đức Huy, Ngọc Bích, Thúy Hà Tú (Khánh Hà – Anh Tú),
Thanh Tuyền, hài có Khả Năng, Thanh Việt, Phi Thoàn, Xuân Phát…
Elvis
Phương nổi danh từ l1972 thời gian vào lúc do Thanh Thúy đang khai thác
phòng trà Queen Bee cùng với ông Tuất (sau thời kỳ Khánh Ly), nhưng
Elvis Phương đã tạo cho mình một chỗ đứng lúc còn là học sinh cùng với
ban nhạc trẻ học đường. Sau đó Elvis Phương đi hát cho nhiều phòng trà
nhưng do không ai dìu dắt lăng xê đến nơi đến chốn nên vẫn chỉ là cái
bóng của những đàn anh àn chị.
Khi
Thanh Thúy khai thác Queen Bee, có nhạc sĩ Ngọc Chánh làm trưởng ban
nhạc Shotguns cùng Cao Phi Long, Hoàng Liêm, Đan Hà; và hội nhập vào
làng sản xuât băng nhạc 1972. Elvis Phương mới được biết đến từ đó
(1969). Tuy vậy Ngọc Chánh không cho mình đã tạo ra tên tuổi Elvis
Phương, anh chỉ có công “lăng xê” còn giọng hát của Elvis Phương là do
thiên phú hay từ môi trường văn nghệ học đường mà thành công. Các lò đào
tạo ca sĩ ngoài những môi trường để dễ dàng “lăng xê” gà nhà, nhưng
muốn lăng xê một ca sĩ còn phải qua nhiều cửa ải khác, như tìm một nhạc
phẩm thích hợp với giọng ca để ca sĩ chọn làm bài hát tủ như người ta
thường ví đo ni đóng giày. Bài hát tủ như khi nghe Phương Dung hát chỉ
có bài Nổi Buồn Gác Trọ là nổi bật, nghe Túy Hồng biết đang hát nhạc của
Lam Phương (cũng là chồng của Túy Hồng), nghe Thanh Thúy lúc nào cũng
có bản Ngăn Cách của Y Vân, Thanh Lan với các ca khúc Bài không tên cuối
cùng của Vũ Thành An hay Tình khúc… của Từ Công Phụng, Lệ Thu với Nữa
hồn thương đau của Phạm Đình Chương, Thái Thanh thì chỉ có Dòng Sông
Xanh nhạc Việt hóa của Phạm Duy, Khánh Ly ngoài những nhạc phẩm của
Trịnh Công Sơn, thường tìm cho mình con đường mới là hát nhạc tiền chiến
của Đoàn Chuẩn – Từ Linh, Văn Cao. Phương Hồng Quế với Phố Đêm, Những
chuyện tình không suy tư của Tâm Anh v.v…
Sau khi
ca sĩ có những bài hát tủ, các lò còn phải nhờ báo chí viết bài ca tụng
tán dương, bỏ tiền cho các tạp chí lên ảnh bìa hay nhờ báo chí cho đứng
tên một mục thường xuyên nào đó như phụ trách trang nhi đồng, giải đáp
tâm tình, trả lời thư tín, nhưng các ông bầu đào tạo thường trao đổi ca
sĩ cho nhau giữa các show truyền hình truyền thanh, vì ít tốn kém và
hiệu quả, tạo đến tai nghe mắt nhìn cho khán thính giả một cách thực tế,
được chú ý hơn.
Một
Phương Hồng Quế có thời gian chiếm lĩnh trọn vẹn trên truyền hình, từ
show này đến show khác, được phong tặng ”Tivi Chi Bảo“, giữ trang Vườn
Hồng, Họa Mi trên báo Tin Điển, Chuông Mai, Trắng Đen, Đồng Nai, Hòa
Bình cùng Phương Hồng Hạnh. Nhưng ai có biết Nguyễn Đức đã bỏ ra bao
nhiêu tiền để Phương Hồng Quế, Phương Hồng Hạnh dược như thế ? Chị em
Thanh Thúy, Thanh Mỹ giữ mục Trả lời thư tín trên báo Tiếng Dân, sau này
cô em út là Thanh Châu trên báo Trắng Đen v.v..
Tất cả
chỉ là cái tên trên báo, vì đã có người làm giúp viết giúp và lãnh tiền
giúp, đó là những ngón nghề lăng xê ca sĩ từ các lò ”đào tạo ca sĩ“.
Đa số
các lò nhạc chỉ thích lăng xê ”nữ ca sĩ ” hơn nam vì có nhiều lý do,
nhưng lý do dễ hiểu nhất đa số… các ông thầy đều có máu dê.
Có một
giai thoại, người ta đồn một nhạc sĩ gốc mật vụ đệ tử Trần Kim Tuyến
thời Ngô Đình Diệm, rất thích các nữ nghệ sĩ, muốn cô nào từ ca sĩ đến
kịch sĩ là nhờ bọn đàn em mời về cơ quan hứa hẹn dành cho họ nhiều ưu
đãi trong nghề nghiệp với điều kiện cho ông ta được ”thưởng thức“, sau
đó giữ bí mật chuyện giữa ông ta với nàng.
Chuyện
bí mật đó là gì ? Trước đó tức trước khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ, có lần
ông nhạc sĩ mật vụ còn cao hứng đòi lấy một nữ kịch sĩ làm vợ, khiến cô
nàng sợ quá vọt trốn ra nước ngoài sống mấy năm mới dám về Sài Gòn hoạt
động kịch nghệ trở lại (cũng nhờ ra nước ngoài mà sau này được trọng
vọng thành người thân cộng ).
Không
phải người nữ nghệ sĩ này không khoái ông sĩ quan mật vụ, mà không khoái
khi nghe ông bầu show là quái kiệt Trần Văn Trạch của “Đại nhạc hội một
cây” nói đến tính bất lực của ông ta. Vậy mà sau này có những con thiêu
thân “ca sĩ mầm non” đang bán phở hủ tíu, chấp nhận cho ông ta được
“thưởng thức” để có môi trường trở thành nữ danh ca ..
TOÀN CẢNH TÂN NHẠC MIỀN NAM
Bước
vào những năm 63 – 70 của thập kỷ trước, phong trào Kich Động Nhac và
Nhạc trẻ bắt đầu xâm nhập mạnh, các ca khúc lãng mạn hay lá cải gần như
chìm lắng nhường cho nhạc ngoại quốc được Việt hóa, lý do bộ thông tin
& tâm lý chiến bấy giờ ra lệnh các nhạc phẩm VN phải có lời mang
tính ca tụng người lính hay tính chiến đấu.
Những
nhạc phẩm sặc mùi chiến tranh tâm lý chiến như Lính dù lên điểm, Người ở
lại Charlie, Đám cưới nhà binh, Hoa biển, Anh không chết đâu em, Câu
chuyện chiếc cầu đã gãy, Kỷ vật cho em, Mùa thu chết v.v.. ra đời.
Loại
kích động nhạc, nhạc VN tâm lý chiến có Trần Trịnh viết cho Mai Lệ Huyền
lúc đó đang còn sống chung (sau Mai Lệ Huyền lấy một đạo diễn trên Đài
truyền hình số 9 rồi mới vượt biên), hát cặp với Hùng Cường thuộc loại
ăn khách.
Nhật
Trường – Trần Thiện Thanh viết cho chính anh cùng với Thanh Lan. Còn
Khánh Ly, Lệ Thu chỉ nỉ non hát những bài của Phạm Duy như Mùa Thu Chết,
Kỷ vật cho Em, Giọt mưa trên lá… Các nhạc sĩ khác không có nhạc phẩm
mới chỉ cho ca sĩ nhai đi nhai lại các bài hát cũ.
Vì vậy
nhạc Pop Rock – Việt hóa ăn khách do không nằm trong lệnh của bộ thông
tin & tâm lý chiến. Những ca khúc trữ tình như Hởi người tình La-ra
nhạc phim Dr.Zivago, Roméo Juliette, Giàn thiên lý đã xa, Khi xưa ta bé,
Lịch sử một chuyện tình… được ra đời. Trước đó xuất hiện cùng những ca
sĩ ban nhạc Black Caps, Les Vampires, Rockin Stars, The 46, Fanatiques,
Spotlights, và phong trào Viet Hóa như Phượng Hoàng, Mây Trắng (Lê Hựu
Hà, Nguyễn Trung Cang, Trung Hành, Elvis Phương), CBC (Bích Liên), Crazy
Dog (Những đứa con của cặp nghệ sĩ Việt Hùng – Ngọc Nuôi với Ngọc Bích
đầu đàn)
Ba Con
Mèo (có Vi Vân, Julie và Mỹ Hòa), Tú Hà Thúy ( Anh Tú, Khánh Hà, Thuy’
Anh) và những ”thủ lãnh” phong trào lúc đó là Nhac Trẻ: Trường Kỳ, Tùng
Giang, Đức Huy, Kỳ Phát, Nam Lộc.
Nên
phải nói rằng nền ca nhạc ở Sài Gòn từ những năm 60 đến 75 mới thực sự
có nhiều điều để nói, vì trước đó thời TT Ngô Đình Diệm cấm mở khiêu vũ
trường, nên sinh hoạt tân nhạc còn trong phạm vi thu hẹp chỉ có Đài phát
thanh, Phòng trà và Đại Nhạc Hội. Trong thời gian này có Ban Thăng Long
với Hoài Trung, Hoài Bắc, Thái Thanh, Thái Hằng, nhạc hài hước có Trần
Văn Trạch, song ca Ngọc Cẩm – Nguyễn Hữu Thiết hay Thúy Nga với tiếng
đàn phong cầm (sau thành vợ Hoàng Thi Thơ ), Duy Trác, Bạch Yến, Thanh
Thúy, Minh Hiếu, Phương Dung, Ánh Tuyết, Cao Thái…
Do
thiếu hụt ca sĩ, các tay tổ chức Đai Nhạc Hội thường đưa vào các tiết
mục múa của Lưu Bình, Lưu Hồng, Trịnh Toàn, kịch nói chưa phát hiện ra
Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng, La Thoại Tân, Vân Hùng… chỉ có những nghệ sĩ
gần đứng tuổi như Phùng Há, Bảy Nam, Năm Châu, Ba Vân, Bảy Nhiêu, Hoàng
Mai, Anh Lân, Kim Lan, Kim Cúc, Túy Hoa, Xuân Dung hay cua-rơ Phượng
Hoàng Lê Thành Cát (một kịch sĩ nghiệp dư) chiếm lĩnh sân khấu cùng kịch
sĩ đất Bắc như Lê Văn, Vũ Huân, Vũ Huyến…
Thời gian 1965 – 1975 giới thưởng thức tân nhạc bắt đầu chia khán giả cho từng loại ca sĩ :
- SVHS
thì thích những giọng hát của Thanh Lan, Khánh Ly, Lệ Thu, Xuân Sơn, Anh
Khoa, Jo Marcel, Sĩ Phú, Paolo Tuan, Elvis Phương bởi khi hát có chọn
lọc nhạc phẩm mang tính nghệ thuật cao cấp.
- Đại
đa số quần chúng lại thích nghe Thanh Thúy, Minh Hiếu, Phương Dung,
Thanh Tuyền, Túy Hồng, Nhật Trường, Thái Châu hát những nhạc phẩm bậc
trung nẳm giữa nghệ thuật và thị hiếu.
Còn lại
các ca sĩ như Chế Linh, Duy Khánh, Hùng Cường, Mai Lệ Huyền, Phương
Hồng Quế, Sơn Ca, Giang Tử, Trang Thanh Lan, Thanh Hùng, Trang Mỹ Dung,
Thiên Trang hát các bài được soạn theo kiểu tiểu thuyết lá cải như
Chuyện tình Lan và Điệp, Nhẫn cỏ cho em, Đồi thông hai mộ, Rước tình về
với quê hương … được giới bình dân ưa thích. (gọi là “nhạc sến”)
Cho
nên giới sản xuất băng nhạc bấy giờ rất kén ca sĩ hát cho nhãn băng
nhạc, nếu nhãn băng nhạc nào có những Lệ Thu, Khánh Ly, Elvis Phương,
Thanh Lan v.v… thì sẽ không có những Chế Linh, Giao Linh, Trang Mỹ Dung,
Giang Tử, Duy Khánh v.v…
Khán
thính giả đã phân chia hạng bậc ca sĩ nhạc phẩm để thưởng thức. Ông bầu
Ngọc Chánh liền cho ra nhiều nhãn hiệu băng mong chiếm trọn thị trường,
vì làm băng nhạc phải nhạy bén với lớp người thưởng ngoạn do đã phân
chia ra từng lớp :
- Shotguns dành cho lớp người có trình độ thưởng thức cao.
- Nhãn băng Thanh Thúy dành cho mọi tầng lớp khán thính giả.
- Nhãn
băng Hồn Nước có Chế Linh, Duy Khánh, Trang Mỹ Dung, Phương Hồng Quế
v.v… - Phục vụ thành phần cao niên hoài cổ có băng nhạc Tơ Vàng của Văn
Phụng Châu Hà, quy tụ những ca sĩ di cư từ đất Bắc như Duy Trác, Châu
Hà, Kim Tước, Thái Thanh, Sĩ Phú qua những nhạc phẩm tiền chiến của Văn
Cao, Đoàn Chuẩn, Từ Linh, Dương Thiệu Tước, Nghiêm Phú Phi, Phạm Duy,
Phạm Đình Chương… vừa có nhạc tiền chiến vừa có nhạc hiện đại của những
nhạc sĩ tên tuổi.
-
Tầng lớp SVHS có nhãn bang hiệu Shotguns, Khánh Ly, Jo Marcel để nghe
nhạc phẩm Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Từ
Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Y Vân, Phạm Thế Mỹ, Nguyễn Ánh 9.
- Giới
bình dân có rất nhiều nhãn hiệu băng như Hoàng Thi Thơ, Họa Mi, Hồn
Nước, Chế Linh, Âm Thanh, Trường Sơn, Nguồn Sống qua nhạc phẩm Châu Kỳ,
Mạnh Phát, Anh Việt Thu, Đỗ Lễ, Trầm Tử Thiêng, Vinh Sử, Tú Nhi, Hàn
Châu, Song Ngọc, Duy Khánh, Thanh Sơn, Y Vũ, Trần Trịnh, Tâm Anh, Đynh
Trầm Ca…
- Nhạc
trẻ có nhóm Trường Kỳ, Tùng Giang, Kỳ Phát đều có nhãn băng nhạc riêng,
riêng kiosque của chị em Thúy Nga (không phải vợ Hoàng Thi Thơ) lúc đó
chỉ chuyên sang nhạc đĩa nhac Ngoai Quốc nước ngoài mang nhãn Selection
hay Anna / Hon Hoang . Thế giới ca nhạc Saigon VN đã phân chia thứ bậc
theo sự thưởng ngoạn, ca sĩ cũng được phân chia ngôi thứ rõ ràng, đó là
đặc tính của tân nhạc miền Nam ngày trước… tháng 04 /1975.
CẶP TRỊNH CÔNG SƠN & KHÁNH LY
Từ ngày
tôi viết báo và làm báo đến ngày Sài Gòn “đứt phim” nhiều lần tôi viết
về Trịnh Công Sơn, dù đến bây giờ giữa tôi và họ Trịnh chưa một lần tiếp
xúc, có lẽ vì Trịnh Công Sơn quá cao ngạo thường nghĩ mình là cái “rún”
của nền âm nhạc Việt Nam từ trước và sau 1975, đồng thời họ Trịnh còn
phân biệt địa phương chỉ thích giao tiếp với người gốc Huế hay gốc Bắc
di cư 1954 sau này 1975, còn người làm báo miền Nam (ngày xưa có hai phe
báo Nam báo Bắc, có cả 2 nghiệp đoàn ký giả Nam Bắc khác nhau), họ
Trịnh tỏ ra không mặn mà để giao tế hay tiếp xúc.
Tôi nhớ
vào khoảng năm 1964-65 phong trào Sinh Viên Học Sinh xuống đường đang
bộc phát mạnh từng ngày. Ngày nào SVHS cũng xuống đường đòi xé Hiến
chương Vũng Tàu của tướng Nguyễn Khánh, rồi một Quách Thị Trang nữ sinh
trường Bồ Đề (Cầu Muối) ngã xuống do lạc đạn tại bồn binh chợ Bến Thành
trong một đêm đầy biến động với lựu đạn cay và cả tiếng súng thị oai của
cảnh sát bót Lê Văn Ken, và từ đó nổi lên phong trào hát du ca, toàn ca
khúc phản chiến.
Cũng từ
đó quán cà phê Văn được hình thành trên một bãi đất gò rộng lớn, bãi
đất này từ thời Pháp từng được dùng làm khám lớn còn gọi bót Catinar bên
hông pháp đình Sài Gòn. Bãi đất được chính quyền Nguyễn Khánh mà mị ve
vuốt cấp cho SVHS làm trụ sở Tổng Hội Sinh Viên do Lê Hữu Bôi, Nguyễn
Trọng Nho đang lãnh đạo phong trào SVHS xuống đường, để đổi lấy sự yên
tĩnh cho thủ đô.
Quán cà
phê Văn nằm sau trường Đại Học Văn Khoa, lúc đó do nhóm sinh viên đang
theo học tại đây dựng lên và đặt thành tên gọi, được đông đảo anh chị em
SVHS ủng hộ hàng đêm cả ngàn người đứng ngồi trên bãi cỏ, mở đầu nghe
phong trào hát du ca của cặp Trịnh Công Sơn – Khánh Ly qua những Ca khúc
Da Vàng.
Trịnh
Công Sơn và Khánh Ly mới từ Đà Lạt vào Sài Gòn. Phong cách biểu diễn của
Khánh Ly lúc đó rất bụi, chân đất, miệng phì phà điếu thuốc Salem và
hát những bài do Trịnh Công Sơn sáng tác và đệm đàn. Bấy giờ người ta đã
đặt cho Khánh Ly cái tên “ca sĩ cần sa”, “tiếng hát ma túy” v.v… vì
giới SVHS thời đó, nhất là giới nữ chưa thấy một ai dám cầm điếu thuốc
hút phì phèo nơi công cộng như thế, xem như một cuộc cách mạng trong
giới trẻ.
Trước
thời gian này họ Trịnh tuy đã có nhiều sáng tác nhưng chưa được ai biết
đến như bài Ướt mi, Lời Buồn Thánh, Xin mặt trời ngủ yên (liên hoàn
khúc) chưa hội nhập được vào giới ca sĩ phòng trà. Nên biết rằng, ca sĩ
thời đó thường hát các nhạc phẩm của những nhạc sĩ đã thành danh như
Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Dương Thiệu Tước, Hoàng Thi Thơ, Lam Phương,
Mạnh Phát, Châu Kỳ, Văn Phụng, Lê Dinh, Anh Bằng, Y Vân, Lan Đài…
những nhạc phẩm mang tính đại chúng, còn nhạc và tên tuổi của họ Trịnh
hãy còn quá xa lạ với mọi người; các ca sĩ không dám hát sợ rằng khán
thính giả sẽ tẩy chay khi hát những nhạc phẩm của người không tên tuổi.
Lúc đó
Khánh Ly cũng như Trịnh Công Sơn đều chưa có chỗ đứng trong sinh hoạt
tân nhạc, khán thính giả chỉ biết đến những ca sĩ như Thái Thanh, Hà
Thanh, Mai Hương, Châu Hà, Duy Trác, Ngọc Cẩm, Nguyễn Hữu Thiết, Hoài
Trung, Hoài Bắc hoặc trẻ trung như Thanh Thúy, Minh Hiếu, Phương Dung
v.v…
Khi
được giới SVHS chào đón trên bãi đất Văn, bấy giờ Trịnh Công Sơn – Khánh
Ly mới được mọi người để ý, bởi lời nhạc và cung cách biểu diễn của cả
hai đang cách tân truyền thống cũ; nhưng tiếp đó cặp Vũ Thành An – Thanh
Lan rồi Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên tuy đi sau nhưng lại nổi đình nổi
đám cũng từ phong trào hát du ca này. Các nhạc sĩ sau soạn nhạc cũng
dành cho giới trẻ cho tầng lớp người mới có kiến thức. Lời nhạc không
rên siết bởi tiếng bom đạn mà rất du dương tình tứ đến lãng mạn gieo đến
tâm hồn người nghe ngọn gió mới.
Sau đó
quán cà phê Văn đâm ra “hắt hủi” cặp Trịnh Công Sơn – Khánh Ly, vì tính
theo tần suất ái mộ, giới SVHS bắt đầu thích nghe “Những bài không tên”,
“Bây giờ tháng mấy”, “Áo lụa Hà Đông” hơn “Gia tài của mẹ”, “Ca khúc da
vàng” v.v…
Các
nhạc sĩ trẻ Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên đã khai phá nguồn
gió mới cho quán Văn, ngược với dòng nhạc và phong cách sáng tác nhạc
phản chiến của Trịnh Công Sơn chống chiến tranh. Lúc này giới trẻ SVHS
cảm thấy dòng nhạc của các nhạc sĩ trên có lời ca rất lãng mạn trữ tình
luôn qua tiếng hát của Thanh Lan. Chính vì vậy Thanh Lan có nhiều lợi
thế hơn Khánh Ly vì được giới SVHS ủng hộ đông đảo hơn, một phần do
Thanh Lan là sinh viên Văn Khoa và cà phê Văn như sân nhà. Sau đó còn có
cặp ca nhạc sĩ Lê Uyên và Phương v…v…
Trịnh
Công Sơn – Khánh Ly bắt buộc phải chuyển thể theo trào lưu, không hát
nhạc phản chiến, cả hai muốn lấy lại tư thế “người của mọi người” nên
chuyển đề tài qua tình ca như dòng nhạc của Vũ Thành An, Từ Công Phụng
hay Ngô Thụy Miên; và Diễm Xưa lại được Khánh Ly thể hiện xem như ca
khúc lãng mạn của Trịnh Công Sơn nhằm đối kháng với “Những bài không
tên”, “Bây giờ tháng mấy”, “Áo lụa Hà Đông”, sau Diễm Xưa tiếp tục với
Lời Buồn Thánh, Mưa hồng, Biển nhớ, Tình xa, Một ngày như mọi ngày…
Nói như vậy cho thấy Trịnh Công Sơn đi trước về sau qua những bản nhạc tình.
Cuối
cùng tôi gặp Trịnh Công Sơn vào trưa ngày 30/4/75 tại Đài phát thanh
Sài Gòn. Trưa hôm ấy có lẽ Trịnh Công Sơn muốn đến kêu gọi giới văn nghệ
sĩ (vì vẫn coi mình là cái “rún” của nền âm nhạc miền Nam ?) bình tĩnh
và ủng hộ chính quyền quân quản, còn tôi đến để lấy tin làm báo, vì tờ
báo tôi được uỷ quyền còn ra đến số báo đề ngày 2/5/75. Và đúng như bài
của Trịnh Cung viết về Trịnh Công Sơn, trưa đó họ Trịnh chẳng nói được
lời nào sau micro, còn Tôn Thất Lập có nói gì với họ Trịnh không thì tôi
“bó tay” do
lúc này ở phòng thu người chật như nêm, ai cũng muốn chen vào muốn “có
tiếng nói” làm “ông kẹ ba mươi tháng tư” kể cả tên mặt rô ở chợ Cầu Muối
cũng có mặt muốn kêu gọi bạn hàng chợ Cầu Ông Lãnh, chợ Cầu Muối hợp
tác với ban quân quản.
Sau
ngày 30/4 ai cũng thấy rõ chiến tuyến của họ Trịnh và Khánh Ly. Quả thật
Trịnh Công Sơn phản chiến vì thân cộng, còn Khánh Ly lại thuộc thành
phần chống cộng. Có người hỏi tại sao Khánh Ly lại ra đi không cùng họ
Trịnh ở lại để hưởng phước lộc trong xã hội chủ nghĩa, khi cả hai từng
có công trạng gián tiếp xúi giục mọi người phản chiến, thanh niên trốn
quân dịch; vì cả hai như cặp bài trùng ?
Khi hỏi
cũng đã có câu trả lời, vì khi phong trào du ca không còn tồn tại, chỉ
còn nhóm “Hát cho đồng bào tôi nghe” của Nguyễn Đức Quang, Miên Đức
Thắng, Tôn Thất Lập “hát chui” ở đâu đó. Còn Trịnh Công Sơn và Khánh Ly
đã tách ra thành hai, bởi cả hai đâu phải đôi “thanh mai trúc mã”, một
người bị chứng bất lực còn một người đang tràn trề sinh lực của lứa tuổi
thèm yêu.
Trước
đó Khánh Ly đã ấy một đại úy biệt kích to con lực lưỡng làm chồng, còn
là một bảo kê cho phòng trà khiêu vũ trường của vợ trên đường Nguyễn Huệ
(Queen Bee) sau chuyển qua đường Tự Do (Khánh Ly). Do vậy Khánh Ly phải
xa họ Trịnh để đến đất nước của Nữ thần tự do, còn nếu ở lại với lý
lịch lấy chồng sĩ quan ngụy quân sẽ bị trù dập “ngóc đầu lên không nổi”.
Tuy vậy
khi qua Mỹ, Khánh Ly không còn nhớ đến người chồng biệt kích còn đang
học tập cải tạo ở quê hương, liền lấy ngay một ký giả từ Sài Gòn cũng
vừa di tản để cả hai tiếp tục hô hào chống cộng.
Còn
Trịnh Công Sơn, khoảng thời gian mười năm sau ngày Sài Gòn “đứt phim”,
họ Trịnh lại bắt đầu nổi tiếng (?), còn tại sao nổi tiếng khi Trịnh Công
Sơn chỉ có những bản nhạc “nhạt như nước ốc” sáng tác cổ động cho phong
trào thanh niên xung phong hay học đường theo huấn thị của ông Sáu Dân,
việc này mọi người đã biết tôi không nói thêm nữa.
Sự trở
lại với nền âm nhạc sau nhiều năm vắng bóng để Xuân Hồng, Trần Long Ẩn…
làm mưa làm gió, nên mọi người còn nhớ Trịnh Công Sơn và báo chí lại đưa
tên tuổi họ Trịnh lên chín tầng mây. Và mặc dù bị chứng bất lực nhưng
cũng có vài con thiêu thân chịu sa ngã để được “dựa hơi”, mong “hơi hám”
của họ Trịnh sẽ cho mình chút hư danh, như
cô ca sĩ HN vừa loé lên đã tắt lịm, bởi nhạc cũ họ Trịnh thì chưa được
hát còn nhạc mới lại nhạt nhẻo chỉ dành cho thiếu nhi hay hát vào mỗi
lúc hô “khẩu hiệu”mà thôi.
Biết
rằng nhạc không còn hồn, không còn sôi nổi cuốn hút người nghe như thời
trước 1975, Trịnh Công Sơn mở quán cà phê trên đường Phạm Ngọc Thạch tức
đường Duy Tân cũ, rồi bắt đầu vẽ hươu vẽ nai rồi nhờ mấy tên ký giả cà
phê “lăng-xê” nét vẽ không thua gì những Phạm Cung, Trịnh Cung… có người
đòi mua cả vài ngàn đô ?!. Vậy là hết cuộc đời âm nhạc để rồi chết vì
nghiện rượu, mà tác phẩm để lại được mọi người còn nhớ đến toàn nhạc
phẩm của những ngày trước 30/4.
Nguyễn Việt
com/
| ||||
|
2012/8/1 nguyenhongvan
Nguyễn Việt là ai mà giọng văn nhuốm mùi cộng sản ? > Có những đoạn nhằm mạt sát các ca sĩ ông ta không thích. Có đoạn ông ta viết: " chia khán giả cho từng loại ca sĩ.... bởi khi hát có chọn lọc mang tính nghệ thuật cao cấp..."
No comments:
Post a Comment