Nỗi Sợ Vẩn Vơ
Nguyễn Hữu Chi - Tiến Sĩ Tâm
Lý
Ðời này ai dại, ai khôn?
Sống mặc áo rách, chết chôn áo lành.
Ca dao
Ðược tin ông
bạn già bất thình lình “ra đi”, tôi vội mang vòng hoa đến chào từ biệt. Ông bạn
tôi mặc bộ đồ rất đẹp, bình thản nằm đó. Tôi mừng thầm cho ông bạn đã “ra đi” một
cách nhẹ nhàng trong lúc đang ngủ ngon lành. Sau đó, trên đường lái xe về nhà,
tôi suy tư về khoảng thời gian còn lại trong đời tôi. Dù sao năm nay tôi đã
trên bẩy chục tuổi đầu rồi. Theo thống kê ở Canada, người đàn ông trung bình có
thể sống tới năm 76 tuổi mới được phép “ngao du vùng tiên cảnh”. Có nghĩa là
tôi còn có thể sống được chừng 5 năm nữa. Vì thế, tôi nghĩ rằng đã đến lúc tôi
phải phác họa ngay một “chương trình ngũ niên” cho tôi, kẻo lúc “ra đi” lại tiếc
rẻ khôn nguôi.
Cũng may hiện
nay tôi vẫn còn khỏe mạnh, tiền hưu trí cũng đủ để “phè phỡn với đời”. Vấn đề
quan trọng bây giờ là phải “phè phỡn” làm sao cho “phải đạo”? Chuyện “ong bướm”
ư? Mục này tôi không còn khả năng để “đụng” tới. Những người đến tuổi sắp “ra
đi” như tôi không nên quá tham lam. Chúng ta hãy để đám con cháu có dịp “thi thố
tài năng”, không nên tranh dành với thế hệ trẻ. Biết nhường nhịn như vậy mới được
người đời kính nể.
Ðối với tôi, ăn uống cũng không còn là một mục
khoái lạc đáng để ý tới. Có mấy cái răng hàm thì rụng gần hết, huyết quản thì bị
mỡ bám đầy, máu thì ngọt như mật ong. Theo tôi nghĩ, ông Trời cho mỗi người một
số lượng đồ ăn nhất định để sinh sống trong suốt cả cuộc đời của mình. Người
nào dùng hết “khẩu phần” của mình là phải “ra đi”. Ông Trời đâu có cho phép
chúng ta kéo dài cuộc sống để “ăn ké” vào khẩu phần của người khác. Nói tóm lại,
“ăn nhiều, ăn nhanh, ăn mạnh, vét cho sạch nồi cơm”, không phải là bí quyết trường
sinh. Các bác sĩ ở các nước Âu Mỹ cũng đã nhận ra điều này, nên đã luôn luôn
khuyên già trẻ cũng như nhớn bé phải ăn uống chừng mực. Hơn nữa, chúng ta cũng
đã từng được nghe các cụ nhắc nhủ nhiều lần: “Ăn để mà sống chứ không phải sống
để mà ăn”, hoặc “tham thì cực thân, Phật đã bảo thầm thì chớ có tham [ăn]”.
Thế là tôi
đã mất hai trong bốn mục khoái lạc mà người đời gọi là “tứ khoái”. Sau cùng,
tôi chỉ còn thấy có hai thú vui hợp với túi tiền và sức lực của tôi: đó là đọc
sách, và đi du lịch. Tôi thấy, đi ngao du những nơi danh lam thắng cảnh là thuận
tiện nhất: ban ngày thì đi thăm viếng đó đây, tối về khách sạn ngồi đọc sách. Ðối
với người có tuổi như tôi, thời giờ rất là cấp bách, làm “công đôi ba việc” như
vậy mới “tranh thủ được thời gian”. Thế là hai vợ chồng tôi bàn nhau đi ngao du
vùng nắng ấm để trốn mùa lạnh ở Canada. Ôi, mùa đông ở xứ “tình nồng” này, sao
mà lạnh thế! Càng về già, tôi càng cảm thấy lạnh, lạnh từ ngoài vào tới tận đáy
lòng con người.
Tối hôm đó, tôi chui vào mền nằm nghĩ đến ngày
mai tới Miami sưởi nắng... Ðang say sưa mơ màng thì vợ tôi đánh thức:
– Dậy đi anh. Ðến giờ ra phi trường rồi,
máy bay không đợi anh đâu. Em đã chọn cho anh một bộ quần áo rất đẹp để mặc đi
đường.
Bỗng nhiên
tôi nhớ đến ông bạn già của tôi đã được Nhà Ðòn mặc cho một bộ quần áo rất đẹp
trước khi lên xe “ra đi”. Tôi nhìn vợ tôi xếp quần áo của tôi vào va-li, tôi vội
hỏi:
– Ủa, em không đi cùng với anh hay sao?
– Em còn bận công việc nên đành phải ở lại.
Anh đã đến tuổi có quyền được đi ngao du, nay đây mai đó. Anh cứ đi chơi thanh
thản là em mừng rồi.
Cuối cùng
tôi đành phải lên xe taxi ra phi trường một mình. Tôi quay đầu nhìn lại mái nhà
thân yêu của tôi cho đến khi nó mờ dần sau màn tuyết trắng, mầu trắng tang tóc
làm tôi khẽ rùng mình. Phải chăng kẻ “ra đi” thường nghĩ tới kẻ “ở lại”?
Quả thiệt máy bay không đợi tôi. Tôi vừa ngồi
xuống ghế thì máy bay bắt đầu cất cánh. Lòng tôi buồn rười ruợi vì tôi đang bay về
vùng nắng ấm trong khi họ hàng thân yêu tôi còn phải ở lại vật lộn với băng tuyết
từ Bắc Cực ù ù thổi về. Khi máy bay hạ cánh xuống phi trường Miami, xe của hãng
du lịch đã chờ sẵn để đưa tôi về khách sạn R.I.P (“Resort of International
Peace”, mà tôi tạm dịch là “Lưu Xá Hòa Bình Thế Giới”). Mới nhìn thoáng qua tôi
đã nhận thấy phong cảnh thành phố này quả có đẹp, đúng như những bích chương quảng
cáo du lịch đã trình bày. Hai bên đường là những cây cao vời vợi, cành lá um
tùm. Xung quanh khách sạn của tôi là những biệt thự xinh xắn nằm sau những hàng
rào hoa đủ mầu đủ loại.
Ngồi uống trà trong vườn của khách sạn, tôi
thoải mái nghe chim hót líu lo và nhìn mấy con bướm bay tung tăng trong nắng ấm.
Một lát sau, người hướng dẫn du lịch mời tôi lên xe đi xem phong cảnh thành phố.
Ðó là một chiếc xe buýt chở chừng 50 du khách đủ loại người. Ða số là người có
tuổi như tôi, nhưng cũng có vài người rất trẻ. Ngoài một số người Mỹ ra, tôi
còn nhận thấy vài người ngoại quốc mặc quần áo cổ truyền của nước họ. Ông tài xế
cho biết là xe sẽ dừng nhiều nơi nổi tiếng trong thành phố, du khách có thể xuống
bất cứ chỗ nào để thăm thú, một giờ sau đó xe sẽ trở lại đón để đưa đi thăm viếng
nơi khác, hoặc chở về khách sạn R.I.P.
Xe đi vòng vòng trong thành phố và vùng ngoại ô.
Xe ngừng nhiều nơi nổi tiếng của vùng này: có những khu biệt thự sang trọng lộng
lẫy, có những bãi cát vàng óng ả chạy dài xuống biển xanh mầu ngọc thạch, có những
trung tâm thương mại xầm uất, v.v... Mỗi khi xe ngừng lại, thì có vài du khách
tíu tít xuống xe. Khi xe tới Tropical Garden (Vườn Bách Thảo Nhiệt Ðới), tôi bèn
xuống xe vì muốn sống lại trong khung cảnh xanh tươi của đất nước tôi khi xưa.
Tôi sung sướng khi thấy lại những cây đa cổ thụ cao ngất từng mây, những cành
hoa phượng vĩ rực rỡ dưới nắng chan hòa, những con chuồn chuồn vui đùa giữa những
cụm bông sen trên mặt hồ phẳng lặng...
Tôi đang thẩn thơ hưởng khung cảnh tĩnh mịch
gần như thoát tục, thì bỗng nhiên nghe có tiếng người gọi tên tôi. Quay lại thì
thấy anh Tùng, người bạn chí thân của tôi từ ngày học đệ thất. Ðả hơn bốn chục
năm rồi bây giờ mới lại gặp nhau. Chúng tôi bắt tay nhau thiệt lâu, mừng mừng tủi
tủi. Chúng tôi dạo chơi dưới bóng mấy cây liễu già bên hồ, kể lại cho nhau nghe
những kỷ niệm vui buồn khi xưa. Sau khi học hết bậc trung học, anh Tùng bị động
viên, nay đây mai đó, theo tiếng súng của thời cuộc ở nơi tiền tuyến. Còn tôi
được may mắn được đi ngoại quốc du học. Tuy vậy, chúng tôi vẫn liên lạc mật thiết
với nhau bằng thư từ. Lá thư cuối cùng của anh tôi nhận được hồi cuối năm 1967.
Trong thư anh cho tôi biết là anh đang hành quân ở Quảng Trị, và trong vài tuần
nữa anh được nghỉ phép để về Cần Thơ ăn tết và nhân tiện cưới vợ luôn một thể.
Thế rồi trận Mậu Thân bất thình lình xẩy ra. Từ đó tôi không nhận được tin tức
gì về anh. Tôi cho rằng anh đã bị tử trận. Bây giờ lại gặp được anh, tôi mừng
muốn khóc. Trong khi đi bách bộ trong vườn, chúng tôi nói chuyện huyên thuyên,
không để ý đến thời gian. Ðến lúc xe buýt tới, chúng tôi đành phải chia tay
nhau. Tôi lên xe ra đi. Anh ở lại vì anh muốn tiếp tục cuộc du ngoạn trong vườn
mà anh ví “như vườn Tao Ðàn ngày xửa ngày xưa, nơi mà chúng mình thường tới
chơi trong những giờ trốn học”. Bắt tay anh, tôi hẹn với anh ngày tái ngộ. Anh
cười vui vẻ, rồi thốt ra một câu triết lý bâng quơ:
– Vũ trụ này thực ra bé nhỏ lắm, chúng mình
đi loanh quanh, luẩn quẩn, mãi rồi sẽ có ngày cũng lại gặp nhau.
Ðến lúc lên xe chạy ra ngoài phố, tôi mới sực
nhớ là đã quên hỏi địa chỉ của anh. Tuổi già lẩm cẩm, hay quên. Thiệt là vô
tích sự!
Xe chạy vào khu ăn chơi buôn bán nổi tiếng
trong vùng. Tôi tò mò xuống xe đi xem cảnh “ngựa xe như nước, áo quần như nêm.”
Ðường phố đông nghịt những người. Họ đi ngắm nhau, hoặc ngắm những hàng hóa đắt
tiền bầy trong tủ kính. Tôi mỉm cười nhìn một bà Mỹ to béo đang chăm chú nhìn một
bộ áo dạ hội mỏng dính với bảng giá “Special Sale: 299.95 dollars.” Tôi cảm thấy
tội nghiệp cho cái “cái cối xay” đang bị thôi miên bởi cái áo “hớ hênh,” vừa hở
lưng đằng sau, vừa hở rún đằng trước. Ðã thích ăn cho mập lù, lại còn thích mặc
quần áo khiêu gợi! Ðang ngẫm nghĩ về cái ham muốn quá đáng của con người, thì
tôi đã bước tới trước cửa một tiệm kim hoàn. Tôi đứng ngắm những vòng ngọc đủ mầu,
những dây chuyền vàng chạm trổ tinh vi, những chuỗi hạt trai sáng rực dưới ánh
đèn trong tủ kính. Bỗng nhiên có tiếng ồn ào trong tiệm, rồi có bóng một thanh
niên chạy vọt ra ngoài, đằng sau là những tiếng hô hoán ầm ĩ. Hai tiếng súng nổ
liên tiếp làm tôi giật mình quay lại. Tôi thấy một cô cảnh sát cầm súng thản
nhiên đứng nhìn người thanh niên đang nằm quằn quại trên vũng máu, tay còn nắm
chiếc đồng hồ vàng nạm kim cương. Khách bộ hành tò mò nhìn cảnh chết chóc như
đang xem chương trình Miami Vice trên ti-vi. May sao vừa lúc đó thì xe buýt của
hotel tới, tôi vội chạy lên xe, để trốn cảnh si mê và tàn bạo.
Xe ngừng bánh nhiều nơi cho du khách xuống
du ngoạn. Nhưng tôi vẫn ngồi yên trên xe vì tôi thấy mất hết cảm hứng đi ngắm cảnh
phồn hoa giả tạo. Cuối cùng xe cũng về tới khách sạn R.I.P khi thành phố bắt đầu
lên đèn. Tôi mệt mỏi xuống xe và rất ngạc nhiên khi thấy bố mẹ tôi mừng rỡ chạy
ra đón tôi, và ôm tôi vào trong lòng. Mẹ tôi vỗ về tôi, rồi nhẹ nhàng trách
tôi:
- Con mải đi chơi ở đâu mà mãi bây giờ mới
về, làm bố mẹ mong chờ.
Tôi cảm thấy hối hận vô cùng, tôi gục đầu
vào vai mẹ tôi khóc nức nở như ngày tôi còn bé...
Bỗng nhiên tôi nghe văng vẳng có tiếng gọi
tôi:
- Dậy đi anh. Anh nằm mơ cái gì mà khóc lóc
thảm thê vậy?
Tôi chợt bừng tỉnh, nước mắt hãy còn rỏ xuống
gối. Sau đó, tôi nghĩ nhiều lắm. Tôi nghĩ đến ông bạn già của tôi mặc bộ quần
áo rất đẹp đang nằm trong nhà quàn. Tôi nghĩ đến chuyến du ngoạn mà tôi đã thực
hiện được trong giấc mơ. Tôi nghĩ đến giờ phút kỳ lạ cho phép tôi gặp lại những
thân nhân của tôi đã bỏ tôi “ra đi” lâu lắm rồi. Tôi nghĩ đến cái sống và cái
chết. Sau khi tôi “ra đi,” tôi sẽ đi về đâu? Là “người trần mắt thịt,” làm sao
tôi biết được. Chỉ những “chuyên gia” nghiên cứu về linh hồn hay duyên kiếp mới
“biết rõ ràng” những chuyện gì “chắc chắn” sẽ xẩy ra khi chúng ta sang “bên kia
thế giới.” Những vị này thường cho chúng ta biết rằng: sau khi chết đi, con người
sẽ khốn khổ lắm nếu không biết thành kính thờ phụng Chúa hoặc ra chùa tụng kinh
giải oan. Có người lại nghĩ rằng sau khi chết đi, con người sẽ trở thành cát bụi,
chứ không đi đâu hết. Trái lại, giấc mơ kỳ lạ mà tôi đã trình bày ở trên làm
cho tôi nghĩ rằng cuộc sống cũng như sự chết không khác gì một cuộc ngao du.
Linh hồn chúng ta có thể là một hành khách trên một chuyến xe buýt du ngoạn. Xe
buýt tới thì ta phải lên xe “ra đi.” Làm sao mà biết được xe sẽ ngừng ở nơi
nào. Khi xe tới trạm, ta phải xuống. Trạm xe bus có thể là một khu “Vườn Nhiệt
Ðới,” có thể là một trung tâm thương mại phồn thịnh giả tạo đầy si mê và tội lỗi,
có thể là một khu tối tăm, nghèo nàn, có thể là một ổ trộm cướp đầy sì ke, ma
túy...
Nếu cho sự chết là một du ngoạn, tại sao
chúng ta không sửa soạn cuộc “ra đi” của chúng ta cho chu đáo. Khi chúng ta vượt
biên, chúng ta sửa soạn rất kỹ càng. Nhưng khi chúng ta đến tuổi phải “ra đi,”
chúng ta lại không tính toán như người vượt biên, dù rằng chúng ta vẫn còn đủ tỉnh
táo để sửa soạn cuộc “ngao du” của chúng ta. Chúng ta không chịu sửa soạn trước
khi “ra đi” vì chúng ta sợ chết, nên chúng ta không dám nghĩ đến cái chết cho đến
khi chúng ta thở hơi cuối cùng. Thế là chúng ta “đẩy” trách nhiệm đó cho những
người thân thiết có nhiệm vụ cáng đáng thân xác của chúng ta. Trong lúc “tang
gia bối rối,” người nào càng thân thiết với chúng ta bao nhiêu, thì lại càng bối
rối bấy nhiêu. Khi bối rối như vậy, làm sao họ có thể tính toán một cách hợp lý
được. Kết quả là người thương yêu của chúng ta sẽ bị các Nhà Ðòn lợi dụng triệt
để.
Chuyện này rất dễ hiểu: vì thương tiếc “người
ra đi,” nên những người thân thích tưởng rằng càng tiêu nhiều tiền cho chuyện
ma chay bao nhiêu, thì “người ra đi” càng sung sướng bấy nhiêu. Thiệt là nhầm
to. Những bài kinh giải thoát, những sớ cầu siêu không hóa giải được những tội
lỗi của con người. Một cuộc mai táng huy hoàng không làm cho “người ra đi” được
“mát mặt” thêm một chút nào. Tuy vậy, những người thân thích luôn luôn muốn có
một đám tang thiệt là linh đình và tốn kém để tỏ lòng thương tiếc của mình đối
với “người ra đi.” Trong trường hợp này, “người ra đi” chỉ còn biết thở dài
(sau khi thở hắt ra). Rồi người đến viếng cũng muốn mua một vòng hoa thiệt to,
thiệt đắt tiền để tỏ tình bạn hữu với “người ra đi” và nhất là để chứng minh
cho bà con lối xóm biết rằng mình là “người đàng hoàng, có thủy, có chung.” Thấy
cảnh này, “người ra đi” cũng lại thở dài, chỉ muốn thốt ra câu từ biệt: “Này bạn
ơi, đã quá trễ rồi. Sẽ có ngày tái ngộ,” và “tức cảnh” làm bài thơ như sau:
Khi một
thằng nằm xuống
Lại
có thằng luống cuống đứng lên
Vái lạy thằng nằm xuống
Hy
vọng khi mình nằm xuống
Lại
có thằng khác luống cuống đứng lên.
Vái lạy thằng nằm xuống
Ðiều mà chúng ta biết chắc là đa số những
người sắp “ra đi” đều lo lắng thiết tha cho “người ở lại,” và nghĩ rằng mình
còn có thì giờ thu xếp mọi việc trước khi “ra đi.” Tiếc thay, khi xe buýt bất
thình lình tới đón đi “ngao du,” chúng ta vội vàng lên xe nên không giúp gì cho
những “người ở lại.” Trong khi đó, “người ở lại” đau đớn muôn phần. Khi bố mẹ
tôi lần lượt qua đời, một mình tôi “ở lại,” tôi lịm người đi vì thương tiếc. Rồi
khi tôi loáng thoáng được tin anh bạn chí thân của tôi bị tử thương, tôi buồn
ngẩn ngơ, tội nghiệp cho số phận long đong của người trai thời loạn. Tôi bối rối
vì tôi cảm thấy hối hận vì tôi cho rằng mình đã cư xử không đầy đủ tình nghĩa đối
với “người ra đi,” không có dịp tổ chức một đám táng trọng thể đưa người quá cố
sang “Bên Kia Thế Giới.” Ngoài ra, trong thâm tâm, tôi cảm thấy lo sợ vì không
biết những thân nhân của tôi sẽ đi về đâu: có được “về với Chúa không”? có
thoát khỏi “vòng nghiệp chướng” hay không? Ðó là những phản ứng tự nhiên của những
“người ở lại.” Vì thế, chúng ta thường thấy những vụ ma chay linh đình để “người
ở lại” có dịp “trả nghĩa” đối với “người ra đi” (thà “trả nghĩa” trễ hạn, còn
hơn là bị mang tiếng “bạc tình, bạc nghĩa”). Chúng ta lại còn thấy trong những
cuộc cúng lễ nguy nga, mọi người thiết tha cầu xin Trời hay Phật giúp “người ra
đi” được lên Thiên Ðàng hay vào Cõi Niết Bàn. Mọi tín đồ đều “biết chắc chắn” rằng
một linh hồn đầy tội lỗi khó có thể siêu thoát được nếu thân nhân không thành
khẩn cầu xin Ðấng Tối Cao nhủ lòng khoan hồng đại lượng với “người ra đi”! Phải
chăng vì chúng ta nghĩ rằng cái quá khứ của “người ra đi” thiếu đạo đức, nên
chúng ta mới phải làm lễ cầu siêu cho “người ra đi” như vậy? Thiệt là tội nghiệp
cho người “ra đi”: Ðã “nằm xuống” rồi mà còn bị người đời gán cho cái tội “thiếu
đạo đức.”
Nói cho cùng, “người ở lại” đáng thương hơn
“người ra đi.” Trong khi “người ra đi” thản nhiên nằm đó, thì “người ở lại”
không những bị xúc động tinh thần mà còn phải xả thân cáng đáng công việc tiễn
đưa “người ra đi.” Vì thế, tôi không thắc mắc về việc tôi sẽ “ra đi,” nhưng tôi
nghĩ rất nhiều, và lo lắng rất nhiều cho “người ở lại.” Tôi muốn “người ở lại”
khỏi phải quàng lên vai một gánh quá nặng nề về tinh thần cũng như vật chất khi
tôi “nằm xuống.” Có lẽ ít người nghĩ như tôi và làm như tôi, vì đến lúc gần
ngày tận số, mỗi người nghĩ một kiểu, và người nào cũng cố gắng làm những việc
mà mình cho rằng thỏa đáng nhất. Do đó, tôi không dám khuyên ai. Những điều tôi
trình bày sau đây chỉ là một thí dụ không điển hình, một lối nhìn đời “không giống
ai.”
Trước hết, tôi không muốn những bạn bè thân
thuộc tôi quá u sầu về chuyến “ngao du” của tôi. Do đó, tôi đã trình bày cho mọi
người biết rằng khi “chuyến xe buýt” tới, tôi sẽ thản nhiên “ra đi” như tất cả
mọi người khác đã từng “ra đi.” Tôi sẽ “đi” về đâu? Có lẽ tôi sẽ về với bố mẹ
tôi. Có lẽ tôi sẽ ngao du vùng tiên cảnh cùng với bạn bè tôi. Dù sao đi chăng nữa,
tôi không cần biết tôi sẽ “đi” đâu, vì có biết hay không biết thì tôi và những
người thân thuộc của tôi cũng chẳng làm được gì cả.
Sau đó, việc tôi phải làm trước khi “ra đi”
là sửa sang lặt vặt trong nhà, vì vợ tôi không phải là một người khéo tay biết
sửa chữa nhà cửa. Ngoài ra, những gì của tôi mà tôi thấy không cần dùng cho bản
thân tôi hoặc cho “người ở lại,” tôi mang đi cho người khác, hoặc đổ vào thùng
rác. Khi tôi quẳng đi gần hai ngàn quyển sách của tôi, tôi cảm thấy nhẹ nhõm
trong người. Trái lại, vợ tôi rất xúc động, và hỏi tôi:
– Những cuốn sách này là kỷ niệm gần 40 năm
dạy học, tại sao anh vất đi?
– Anh không cần nữa.
– Thì cứ để đấy, đôi khi anh muốn đọc lại
thì sao?
– Ðọc đi, đọc lại làm gì? Người ta lại tưởng
rằng anh dốt, học mãi mà chưa thuộc bài.
Sau khi dọn
dẹp nhà cửa, tôi bắt đầu nghĩ đến phí tổn chôn cất. Tôi thấy ở Ottawa mấy gia
đình mà tôi quen biết đã chi phí trên 15 ngàn dollars cho mỗi vụ ma chay. Tôi
tính nhẩm trong đầu thì thấy rằng chỉ trong vài chục năm nữa, cộng đồng người
Việt ở Ottawa (hơn bốn ngàn nhân mạng) sẽ phải chi cho Nhà Ðòn và nghĩa địa một
tổng số vào khoảng 60 triệu dollars (không kể tiền chi cho các vị tu sĩ cúng lễ,
cùng tiền bạn bè bỏ ra mua hoa phúng viếng). Như vậy, phí tổn ma chay cho nửa
triệu người Việt đang sinh sống ở Bắc Mỹ sẽ lên tới gần 8 tỷ dollars – bằng tiền
viện trợ mà những nước tư bản kiêm tài phiệt đã cấp cho “Ðảng ta” trong một khoảng
thời gian kéo dài hơn bốn năm trời. Thiệt là oai hùng! Thiệt là vĩ đại!
Ðể biết rõ chi tiết của vấn đề, tôi bèn mời
một đại diện Nhà Ðòn quen biết ở Ottawa tới bàn chuyện ma chay cho tôi. Ông “tiếp
thị” (salesman), quần áo chỉnh tề, mặt trang nghiêm và đầy kính cẩn, ăn nói nhẹ
nhàng và từ tốn trong khi trình bày giá cả cho tôi nghe. Tập tài liệu về giá biểu
in rất đẹp như tờ thực đơn của một tiệm ăn sang trọng ở Paris (năm sao). Ðiều
quan trọng mà mọi người nên biết là “người mua” không được kỳ kèo về giá cả, vì
Nhà Ðòn làm ăn đàng hoàng “trước sau như một,” không khác gì “Bác và Ðảng” đã đối
xử với dân ta hơn nửa thế kỷ nay.
Tôi đọc kỹ tờ giá biểu, rồi tham khảo với
các bạn bè, tôi thấy rõ phí tổn nặng nề mà “người ở lại” phải chi cho Nhà Ðòn ở
Canada (có lẽ cũng tương tự như ở bên Mỹ). Ðể có một thí dụ cụ thể, tôi xin liệt
kê sau đây các “món hàng” căn bản mà Nhà đòn Tubman đã trình cho tôi:
(1) Dịch Vụ Chuyên Môn (Professional
Services)
• 900$ – dịch vụ do các chuyên viên Nhà Ðòn
cung cấp (professional and support staff services);
• 250$ – giấy tờ lên quan đến vấn đề khai tử
(documentation);
• 125$ – dịch vụ ở nghĩa địa hoặc công việc
trao lọ đựng tro cho thân nhân (gravesides service or delivery of urn as
arranged).
(2) Dịch Vụ Chăm Lo “Người Ra đi”
(Prrofessional Care of Deceased)
• 200$ – tắm rửa và làm vệ sinh cho “người
ra đi” (sanitary care of deceased);
• 570$ – ướp xác và trang điểm “người ra
đi” (embalming and cosmetology of deceased).
(3) Phòng Ốc Và Dụng Cụ
• 400$ – xử dụng Nhà Ðòn (basic use of
funeral home);
• 990$ – xử dụng phòng thăm viếng, phòng
làm lễ và những dụng cụ (visitation room, chepel, and/or service equipment);
• 225$ – xử dụng phòng sửa soạn và gìn giữ
xác “người ra đi” (use of facilities for preparation of deceased and/or shelter
of remains).
(4) Xe Cộ Và Vận Chuyển (Automotiles and
Transportation)
• 295$ – chuyển xác về Nhà Ðòn (transfer
from place of death ố radius 40 km);
• 200$ – xe cộ cần dùng cho các nhân viên
Nhà Ðòn (vehicles required for administrative tasks, clergy, funeral director);
• 270$ – xe chở quan tài ra nghĩa địa
(funeral coach);
• 125$ – xe limousine chở thân nhân.
Chi
phí căn bản cho Nhà Ðòn là $5,604.03 (gồm cả thuế)
(5) Chi Phí Cho Thành Phố
• 75$ – khám nghiệm tử thi.
• 52$ – thuế vệ sinh cho thành phố.
(6) Phí Tổn Mai Táng
• 3,700$ (trung bình) – Tiền mua quan tài
tùy theo loại sang hay hèn, đúng theo giai cấp: từ thứ rẻ nhất là vải quấn xác
(890$) cho tới quan tài rẻ tiền bằng gỗ ván ép (1,695$), tới loại quan tài vừa
đẹp vừa bền dành cho các nhà giầu thích sài sang (11,000$);
• 5,500$ – Tiền mua chỗ “An Nghỉ Ngàn Thu”
(R.I.P - Rest In Peace ) tại nghĩa địa: miếng đất to hơn cái giường đáng giá
khoảng chừng 5,500$;
• 1,000$ – Tiền dựng mộ bia tùy theo túi tiền
của mỗi người (từ 1,000$ cho tới 5,000$, hoặc nhiều hơn nữa).
Chi phí mai táng trung bình khoảng chừng
$13,000
Tôi đọc tờ giá biểu thấy nhân dân ta bị Nhà
Ðòn và Nhà Nước làm tiền một cách rất là quy củ. Không những thế, ông “tiếp thị”
lại còn khuyến khích tôi “mua” nhiều món “hàng” khác vừa đắt tiền, vừa... vô dụng.
Tôi bèn chặn lại với một câu hỏi rất ư là “rẻ tiền”:
– Mai táng kiểu nào rẻ tiền nhất?
Hắn ngỡ ngang vì đang “rao hàng” thì bị cụt
hứng. Nhưng ngay sau đó, hắn mỉm cười, rồi nhìn tôi một cách rất ư là đại lượng:
– Ông thích chơi trò rẻ tiền thì ông nên chọn
con đường hỏa táng, vì ông sẽ không mất tiền chi phí chôn cất và mua đất ở
nghĩa địa.
– Ngoài tiền hỏa táng ra, còn có mục chi
phí nào khác nữa không.
– Có chứ. Thân xác của ông sẽ được tắm rửa,
thoa son đánh phấn, và được đặt trong một cỗ quan tài thiệt đẹp. Chúng tôi sẻ tổ
chức linh đình cho ông. Ai trông thấy nằm đó cũng phải thèm cái địa vị của ông.
– Nếu tôi thích đi con đường hỏa táng, thì
tôi đâu có cần mua quan tài làm gì cho tốn tiền?
Lần này hắn nhìn tôi một cách khinh thường
ra mặt, và nói với một giọng mỉa mai:
– Ông cũng cần phải được trang điểm và nằm
trong một cỗ quan tài đàng hoàng khi bạn bè thân thuộc đến thăm viếng ông lần
cuối cùng. Trưng bày thân xác ra như vậy mới là người đàng hoàng chứ! Tuy
nhiên, nếu ông thích bủn xỉn, thì cũng không sao. Chúng tôi cũng có thể chiều
ông được. Ðáng lẽ ông mua một cỗ quan tài rẻ tiền, ông có thể thuê một cỗ quan
tài sang nhất hạng. Cỗ này đáng giá 11,000$. Những người giầu sang mua loại
này, rồi mang đi chôn hay đốt cùng với cái xác của họ. Nhưng nếu ông mướn cỗ
quan tài này, để nằm vài ba bữa, lấy le với bà con lối xóm, thì ông chỉ phải trả
tiền thuê là 2,850$. Thiệt là rẻ mạt! Làm sao mà người đời biết được rằng ông
là người hà tiện, đến lúc “nằm xuống” mà còn không dám bỏ tiền ra mua một cỗ
quan tài để nằm cho thoải mái.
– Nhưng tôi không muốn “trình làng nước”
cái thân thể xám ngắt của tôi cho mọi người chiêm ngưỡng thì sao?
Hắn thở dài đến sượt một cái như một thầy
giáo làng nhìn thằng học trò bướng bỉnh lại còn có tật cù nhầy:
– Làm như vậy cũng bớt được vài ngàn: tiền
son phấn, tiền thuê quan tài, tiền thuê Nhà Ðòn v.v.. Mà ông cũng không cần phải
chi cho các vị tu sĩ đến tụng kinh gõ mõ tùm lum trong Nhà Ðòn của chúng tôi
làm gì. Thế là ông đỡ thêm được vài ba trăm nữa. Ðối với hạng người “rẻ tiền”
như ông, đỡ được trăm nào hay trăm đó, có phải không?
Thằng cha “tiếp thị” cho tôi là người bủn xỉn
nên có vẻ bực mình lắm. Hắn chỉ muốn thu được nhiều tiền cho chủ Nhà Ðòn để được
ăn nhiều tiền hoa hồng do gia đình “người ra đi” cung phụng. Vì thế, mỗi lần
tôi bớt được món chi phí nào là hắn có vẻ đau đớn như đang bị bà nha sĩ nhổ một
cái răng hàm bự trong mồm. Cuối cùng, tôi chọn một chương trình hỏa táng hợp với
ý tôi. Tổng số tiền tôi phải chi ra là 2,709.24$ cho những mục như sau:
• tiền giấy tờ (khám nghiệm xác chết, giấy
khai tử, v.v.);
• tiền xe đưa xác tôi từ nhà xác đến Nhà
Ðòn;
• tiền hòm bằng giấy cứng (50$) đựng xác chết
để mang đi hỏa táng;
• tiền đưa hòm xác tới lò đốt (không có vụ
bầy biện thân xác ra cho mọi người “dòm ngó”);
• tiền đốt xác;
• tiền hộp đựng tro để trao cho vợ tôi mang
đi thả xuống biển (tôi mua loại rẻ tiền nhất nên chỉ tốn có 20$; còn loại sang
và đẹp thì lên tới 500$);
• tiền thuế trả cho thành phố, tiểu bang,
và liên bang.
Người “tiếp thị” đại diện Nhà Ðòn Tubman và
tôi cùng ký vào tờ khế ước (bốn bản). Sau đó, tôi hân hoan trao cho hắn tấm
ngân phiếu 2,709.24$. Tôi phải trả tiền trước. Ðối với tôi, điều này rất thuận
tiện, vì sau này giá cả có gia tăng thì Nhà Ðòn ráng mà chịu, chứ những “người ở
lại” không còn phải lo lắng điều gì cho “người ra đi.”
Khi vợ tôi đi làm về, tôi hý hửng đưa cho
cô nàng xem tờ khế ước. Thế là cô nàng khóc bù lu bù loa, rồi hỏi tôi một câu
mà tôi cho là lãng nhách:
– Trong cả cuộc đời của anh, anh chỉ thích
chơi sang. Tại sao đến cuối cuộc đời, anh lại định chết một cách rẻ tiền như vậy?
– Em hỏi một câu thiệt là lãng nhách! Thế
nào là chết rẻ tiền? Chết sang thì đi đến đâu? Mang tiền ra cúng Nhà Ðòn và Nhà
Nước làm gì? Chúng nó làm gì có quyền cấp visa cho anh vào Thiền Ðàng, hay vào
Vùng Cực Lạc. Việc gì mình phải “đút lót” chúng nó? Dù sao anh cũng “save” hơn
12,000$, chứ đâu có phải là ít.
– Em không cần món tiền đó đâu!
– Nếu em không cần số tiền đó, thì em mang
nó đi giúp người nghèo, có sao đâu? Ða số dân ta hiện đang sống trong cảnh
nghèo túng. Em có biết rằng nếu em mang 12,000$ về Việt Nam, em có thể nuôi hơn
60 em mồ côi trong một năm. Như vậy, anh là người “chết sang” hay là người “chết
rẻ tiền”?
Thấy tôi lý luận như vậy, cô nàng vừa lau
nước mắt vừa cười đùa:
– Thôi, anh muốn chết kiểu nào cũng được.
Cái đó tùy anh. Nếu anh “ra đi” trước em, em sẽ chúc anh theo kiểu Tàu: “Thượng
Lộ Bình An,” và xin anh “Bảo Trọng.”
– Vậy, trước khi “ra đi,” anh sẽ chào em
theo kiểu Mỹ: “Hẹn Ngày Tái Ngộ” – “See You Later.”
Đừng Chết Trước Khi Đọc Bài Nầy
(1) Nên khảo giá nhiều nơi dù vợ có cằn nhằn cũng thây kệ.
“
Sai lầm lớn nhất của tang quyến, là không chịu khảo giá năm ba nơi khác
nhau. Người ta cho giá nào, thì cũng nhận, không dám hỏi mà cũng không
dám mặc cả từ quan tài, cho đến đất chôn, và các nghi lễ tốn kém khác."
"Sai
lầm kế tiếp là chọn lựa nhà quàn. Thường chọn gần nhà, hoặc nơi đã có
người quen làm đám tang rồi. Nếu không khảo giá vài ba nơi, tang quyến có thể trả giá gấp 3 lần nơi khác. Ví như cùng việc mai táng, có nơi cho giá 2500 đô mà chỗ khác đến 6500 đô. Cũng việc thiêu xác, có nơi chỉ 395 đô, mà nơi khác đến 5600 đô.”
2) Có nên chưng mặt người chết ra không?
"... người Việt mình bắt chước Mỹ, trưng bày mặt người chết cho bạn bè thân nhân nhìn lần cuối trước khi đem
chôn là một việc làm không nên. Vì dù có trang điểm cách nào đi nữa,
thì khi đã chết, mặt mày cũng không còn dễ nhìn như khi còn sống, nếu
không nói là xấu xí, rờn rợn, hốc hác, tái mét."
“Khi
làm mặt và trang điểm cho người chết, tôi xem chiếu trong phim tài
liệu, mà sợ. Ngoài việc moi hết tim gan phèo phổi, dạ dày, ruột non ruột
già, thấy người ta còn dùng mấy cây sắt dài chừng nửa
thước, to hơn chiếc đũa, xiên từ trong miệng xuống cổ, vào thân, có lẽ
để giữ cho cái đầu và xác ở vị trí thẳng. Rồi cắt trong nướu, để dùng
dây kẽm may, xâu hàm trên và hàm dưới lại với nhau trong vị trí bình
thường, cho miệng khỏi há ra, và may môi lại với nhau. Dùng
chất dẻo đắp vào các nơi cần đắp. Sau đó, dùng phấn, màu, thoa lên mặt,
tạo thành một lớp giống như da thường. Cắt tóc, cạo hay tiả râu lại cho đẹp. Nếu mình chứng kiến tận mắt khi họ làm cho thân nhân mình, thì đau lòng lắm.”
Nói
cho cùng, rất nhiều người đi phúng viếng người chết rất ngại ngùng khi
phải bước đến quan tài nhìn mặt người quá cố dú không ai tiện nói ra.
3) Người Công Giáo có được hỏa thiêu hay không?
Ngày
xưa giáo hữu Thiên Chúa Giáo tin rằng đến ngày phán xét, linh hồn sẽ
nhập vào xác, đội mồ sống dậy nghe bản án cuối cùng. Nếu xác đã bị
thiêu, hồn lấy gì để nhập vào mà nghe Chúa phán xét? Vì vậy, trước đây,
người Công Giáo không được hỏa thiêu và các linh mục không được làm lễ
cho các đám tang mà người chết bị đưa lên dàn hỏa. Thời Trung Cổ, giàn
hỏa dành cho những kẻ rối đạo, những người dị giáo.
Đến năm 1963, Đức Giáo Hoàng Phao Lồ Sáu tuyên bố việc hoả thiêu là không trái với Giáo Luật
Ba năm sau, 1966 các linh mục được phép làm lễ cho các đám tang hoả thiêu.
Tóm lại, ngày nay, không có trở ngại chi cho việc hỏa thiêu người Công Giáo
4) Cuối cùng, xin đọc di chúc của một cụ bà rất hiểu biết:
“...Sau
nầy mẹ chết, thì mẹ ước mong các con làm đám tang đơn giản. Không khăn
sô, không tụng niệm, không để bà con xem mặt, không phúng điếu, không
vòng hoa, và mẹ muốn được thiêu xác. Tro cốt thì đem thả xuống Thái Bình
Dương, để mẹ hoà tan vào biển cả, may ra thấm về thấu tận quê nhà bên
kia đại dương. Đừng chôn tiền xuống đất. Tiền tiết kiệm được đem cúng
cho hội từ thiện ..”
BIẾT ĐÂU LÀ KHỞI ĐIỂM CUỘC RONG CHƠI
Mẹ vợ ông Hàn mới chết, con cháu từ xa đổ xô về chịu tang. Các anh chị em vợ của ông chọn một cái hòm do nhà quàn đề nghị, với giá 12 ngàn đô. Ông Hàn chê
đắt, bảo khoan quyết định, chờ ông khảo giá đã. Ông Hàn bình tĩnh ngồi
bên máy vi tinh, lục tìm khảo giá. Bà vợ ông thì chạy lui chạy tới trong
phòng khách, dẫm chân đành đạch trên sàn nhà, khóc bù lu bù loa, rồi đến day áo ông mà nói:
“Giờ
nầy mà anh còn ngồi đây thong dong khảo giá? Chuyện nầy cấp bách. Có
phải mua món hàng gia dụng đâu mà chần chờ? Tốn kém bao nhiêu anh em
chúng tôi cũng chung chịu. Mẹ chết có một lần. Làm chi cái việc hà tiện
xấu thế?”
Ông anh vợ cũng bối rối nói:
“Giờ
phút nầy, thì nhà quàn ra giá bao nhiêu, mình cũng phải nhận. Có đắt
hơn ít trăm bạc, cũng không sao. Mình lựa chọn cái hòm đó, chứ họ có ép
mình đâu?”
Ông Hàn quay ngoắt lại, nói với giọng cứng rắn:
“Ít trăm thì tôi khảo giá làm chi? Phải ít nhất là mấy ngàn đồng. Có thể tiết kiệm được từ 40% đến 60% toàn bộ chi phí tang lễ. Dù là tiền của ai đi nữa, tôi cũng không muốn phung phí.”
Bà vợ thét lên:
“Rồi
mua phải thứ hòm giả mạo, không tốt. Nó đâu đem đến liền cho mình được,
chờ đến bao giờ mới có? Chậm trể việc ma chay. Mà lỡ nhà quàn không
chịu nhận hòm từ nơi khác đưa tới, thì đem cái hòm đi tặng ai, tôi nhất
định không cho để trong nhà nầy.”
Ông Hàn cười hề hề, chậm rải trả lời:
“Giả mạo làm sao được? Cũng hòm ấy, cùng hiệu, cùng tên, cùng nhà
sản xuất. Nhà quàn cũng mua tại các nơi đó thôi. Rồi cọng thêm chi phí,
tiền lời, mà tăng giá lên. Ai dại mua thì ráng chịu. Nhà quàn cũng
không làm gì sai trái. Họ làm thương mãi, phải kiếm cho được nhiều tiền
lời càng tốt. Họ chẳng có gạt gẫm ai. Nhưng nếu mình mua được hòm đúng
giá, thì người bán sẽ chuyển ngay đến nhà quàn trong vòng 24 giở. Chắc
chắn. Theo luật liên bang Mỹ, bắt buộc nhà quàn không được từ chối quan
tài và các vật dụng cần thiết cho người chết do thân nhân mua và đem
đến. Trường hợp đó, nhà quàn chỉ lo các dịch vụ tang ma, các lễ lạc mà
thôi. Tôi còn phải kêu nhà quàn cung cấp cho mình bảng ghi giá cả của
từng mục, gọi là FPL (Funeral Price List) theo luật định. Tôi sẽ so sánh
thêm giá cả của từng mục dịch vụ để không bị hố, trả giá cao, đắt. Bà đừng lo, nếu nhà quàn không nhận hòm, thì tôi bán lại kiếm chút lời.”
“Bây
giờ không phải là lúc đùa giỡn được. Anh có chắc hòm được giao đúng thứ
mình muốn, và trong vòng 24 giờ không. Giao cho nhà quàn, họ tráo hòm
khác thì sao? Anh đã có kinh nghiệm nào đâu?”
“ Mình có thể đòi hiện diện trong lúc giao hàng, ai mà đánh tráo được?”
Cả nhà bực mình, xôn xao vì thái độ kỳ cục của ông Hàn. Một bà chị vợ gay gắt:
“Có phải vì không là mẹ ruột, nên cậu nhẩn nhơ, và đòi làm những chuyện trái đời?”
Ông
Hàn hơi giận, giọng cứng, gằn: “Nầy, chị đừng nói thế. Mấy năm nay ai
chăm sóc mẹ? Ai đưa mẹ đi bệnh viện, làm đủ thứ giấy tờ, nhắc mẹ uống
thuốc hàng ngày? Thằng nầy chứ ai. Thế thì bây giờ mẹ qua đời, tôi không
có quyền phụ giúp mẹ và cả gia đình nầy, cử hành tang lễ đàng hoàng
hơn, ít tốn kém hơn hay sao?”
Ông Hàn gầm gừ bỏ đi, lục lọi tìm tòi trong mấy chồng hồ sơ, và quăng ra một tờ bào “US News & World Report” và nói:
“Các anh, các chị đọc bài “Đừng Chết Trước Khi Đọc Bài Nầy” (Don’t Die Before You Read This) đi, để biết.”
Vợ
ông Hàn la lên: “Trời ơi, giờ nầy còn bụng dạ nào mà đọc báo? Mà nó
viết gì? Sao anh không tóm tắt kể cho bà con nghe, xem có lọt tai
không?”
Ông
Hàn chầm chậm nói: “Tác giả Miriam Horn viết về chuyện linh mục Henry
Wasielewsky. Vị linh mục nầy đã vạch trần cách làm ăn thiếu lương thiện,
bóc lột quá đáng của một số nhà quàn trong lúc tang gia bối rối. Đã bị
những nhà quàn bất lương hăm dọa, nhiều lần kêu điện thoại
lúc nửa đêm đòi xin tí huyết, không những thế, ông còn bị cảnh sát địa
phương săn đuổi, và cả vị Giám Mục địa phận cũng đày ông đi xa. Bài báo
viết rất hay, kể rõ một số thủ đoạn của những nhà quàn thiếu lương
thiện.”
Ngưng
một lát, uống hớp nước xong, ông Hàn nói tiếp: “Tác giả viết thêm rằng,
người ta không có kinh nghiệm, không có thì giờ trong thời gian cấp
bách, không có đủ bình tĩnh khi đang đau buồn, bối rối, cho nên nhà quàn
và nghĩa địa làm giá rất cao. Tang quyến mệt quá, và nghĩ rằng người
chết chỉ có một lần, nên giá nào cũng chịu. Cò kè giá cả trong lúc đau
buồn nầy, thì thấy có cái gì lấn cấn trong lòng. Trong bài
báo nói, giá cái hòm chỉ 675 đô, mà nhà quàn đưa giá 3495 đô, cũng gật
đầu chấp nhận. Giá xe tang mỗi giờ vào thời đó chỉ 25 đô mà tăng lên 200
đô hay cao hơn nữa. Cũng như các món khác như là hoa, bia mộ, thiệp cám
ơn vân vân, tăng gấp 3 đến 8 lần. Nếu giá chỉ tăng 100% thôi, là đã là
phước cho tang chủ lắm.”
Ông
Hàn cười, và tiếp lời: “Bài báo viết thêm rằng, trường hợp tang chủ kêu
đắt, họ nói khéo lắm. Đề nghị bỏ xác vào thùng giấy đem chôn sẽ được rẻ
hơn nhiều, tang quyến nghe mà xót xa, đau lòng, tủi thân, nghĩ rằng mình thương người quá cố không đủ, thế là cắn răng chịu giá cao.”
Bà Hàn hỏi thêm: “Còn gì nữa không?”
“Đây,
tác giả viết rằng, có một bà đã khóc và xin bà con bạn bè trợ giúp tiền
bạc để làm đám tang cho chồng. Nhà quàn đòi 995 đô cho cái hòm. Khi có
người hỏi sao đắt thế, họ bảo đó là loại hòm đặc biệt. Có người không
tin, đi khảo giá, cũng hòm đó, loại đó, thì nơi sản xuất bảo rằng đó là
loại rẻ nhất bằng ván ép. Người ta đến phàn nàn với nhà quàn, thì họ
giảm giá xuống 50%.Có nhà quàn gián tiếp hối lộ cho tu sĩ,
giáo sĩ, tặng những vé máy bay đi chơi, du lịch miễn phí, để họ dành cho
nhà quàn sắp xếp chương trình tang lễ. Có thế mới ra giá cao được. Có
thể tưởng tượng được không, cùng một cái hòm, mà có nơi đưa giá chỉ
1495 đô, mà nơi khác cho giá 9910 đô. Một số nhà quàn kiếm tiền của thân
nhân kẻ quá cố dễ dàng, bằng cách bán các phụ kiện trong đám ma. Ví như
gắn thêm một tượng kim loại nhỏ, hình Đức Mẹ Maria, giá mua chỉ chừng 3
đến 5 đô, mà tính đến một hai trăm. Người ta ngại, không dám hỏi về
những biếu tượng thiêng liêng nầy.”
Ông
Hàn đưa tờ báo cho mọi người và thúc hối : “Đọc đi, mọi người đọc đi để
thấy việc tôi làm đây là đúng hay sai. Nếu không biết, thì để cho người
khác làm, đừng cản trở”
Vừa
lúc đó, thì có bà Kim đến. Bà nầy trước đây làm việc cho nhà quàn, bà
là trưởng giám đốc tang lễ, nay đã về hưu. Ông Hàn như bắt được của quý,
xoắn lấy bà Kim, yêu cầu giúp đỡ, hướng dẫn dể làm sao giảm thiểu được
chi phí đám tang . Bà Kim ngồi cười. Vợ ông Hàn chạy ra phân bua:
“
Giờ nầy mà ông xã em còn khảo giá trên mạng để làm tang lễ. Ông ấy muốn
giảm chi phí, vì nhiều nhà quàn thường cho giá cao trên trời. Chị làm
trong nghề, xin chị chỉ giúp tụi em với.”
Bà
Kim chậm rải: “Không phải nhà quàn nào cũng thiếu lương thiện, muốn
nhân cơ hội tang gia bối rối mà moi tiền. Rất nhiều nhà quàn đàng hoàng,
uy tín, nhưng họ cũng thừa khôn ngoan, để tìm lợi tức tối
đa cho cơ sở kinh doanh của họ. Giá cả cũng có cao, nhưng cao vừa phải,
không quá lố. Nếu họ có đề nghị, quảng cáo khách hàng mua thêm mục nầy,
mục kia, thì là lẽ thường trong việc kinh doanh kiếm lời. Với chủ trương
không gạt gẫm ai, nhưng ai muốn có những thứ xa xỉ, đắt tiền, mà có khả
năng tài chánh, thì tại sao nhà quàn lại bỏ lỡ cơ hội ? Nhà quàn là nơi
làm thương mãi, kiếm lợi tức, chứ không phải nơi làm phước thiện.”
Ông
Hàn nhỏ nhẹ: “Chị có nhiều kinh nghiệm trong ngành nầy, chúng tôi xin
chị vài lời vàng ngọc hướng dẫn cho, làm sao để giảm thiểu chi phí chôn
cất thân nhân, tránh những sai lầm tốn kém vô ích.”
Bà
Kim cười: “ Sai lầm lớn nhất của tang quyến, là không chịu khảo giá năm
ba nơi khác nhau. Người ta cho giá nào, thì cũng nhận, không dám hỏi mà
cũng không dám mặc cả từ quan tài, cho đến đất chôn, và các nghi lễ tốn
kém khác. Sai lầm kế tiếp là chọn lựa nhà quàn. Thường chọn gần nhà,
hoặc nơi đã có người quen làm đám tang rồi. Nếu không khảo giá vài ba nơi, tang quyến có thể trả giá gấp 3 lần nơi khác. Ví như cùng việc mai táng, có nơi cho giá 2500 đô mà chỗ khác đến 6500 đô. Cũng việc thiêu xác, có nơi chỉ 395 đô, mà nơi khác đến 5600 đô.”
Bà
vợ ông Hàn bẻn lẻn nói nho nhỏ: “Nếu chị không nói ra điều đó thì em
tưởng ông chồng em là người khùng, gàn dỡ, chướng ách. Nhưng em hỏi chị,
thì giờ đâu mà đi khảo giá, thân nhân mình chết rồi, có nằm đó mà chờ
được không?”
Bà Kim cười nhẹ nhàng:
“
Cứ thong thả, để xác thân nhân tại bệnh viện, nơi đây có đủ phòng lạnh
để tồn trử, không ai đem xác quăng đi hoặc gởi hoá đơn xuống âm phủ đòi
tiền người chết. Khi nào tìm được nơi làm tang lễ tốt, giá cả xứng đáng,
chịu được, thì mới ký hợp đồng”
Một ông rể trong gia đình xen vào câu chuyện: “Trường hợp của gia đình tôi, ông bố vừa tắt thở tại bệnh viện, thì khoảng mười
phút sau có nhân viên của nhà quàn đến tiếp xúc với gia đình, nói là họ
được kêu điện thoại để đem thi hài thân nhân quý vị về nhà quàn. Chúng
tôi vừa ngạc nhiên, vừa mừng là tự nhiên có người lo cho mình, khỏi
phải đi tìm, chạy ngược xuôi trong lúc bối rối nầy. Chị có biết tại sao
nhà quàn biết giỏi thế?”
Bà
Kim cười: “Có gì lạ đâu? Nhiều nhà quàn liên lạc mật thiết với các y-tá
trong các khu cấp cứu, hồi sinh. Khi có người qua đời, thì y tá báo
ngay cho nhà quàn biết. Cũng là chuyện làm ăn thường tình”
Ông Hàn hỏi: “Làm sao giảm thiểu được chi phí tống táng, mà tang lễ vẫn được trang trọng, bình thường?”
Bà
Kim nói: “Đừng gồng mình lên mua tất cả các mục không cần thiết mà nhà
quàn liệt kê và khuyến cáo. Mua tối thiểu mà thôi. Vòng hoa trên ngực,
vòng hoa trên quan tài, mình mua chỉ mấy chục đô, nhà quàn sẽ tính đắt
gấp năm, gấp mười lần. Nếu khôn ngoan, thì làm lễ tưởng niệm tại nhà,
tại chùa, nhà thờ. Trang trọng và thân mật hơn.”
Bà Hàn lo lắng hỏi: “Chỉ có mua hòm và đất chôn thôi, là đã đủ. Còn chi phí gì khác nữa chăng ?”
Bà
Kim cười : “ Có lẽ ai cũng tưởng chôn cất là đơn giản như chị nghĩ.
Không. Cả mấy chục thứ chi phí , tôi kể sơ ra đây mà thôi, nghe chán
lằm. Nầy nhé, chi phí cơ bản tại nhà quàn để bàn định việc chôn cất,
giấy phép chính quyền, khai tử, mua hòm, vải tẩm liệm, quách bao quanh
hòm dưới đất, chuyển xác từ nơi chết về nhà quàn, tẩm xác bằng cách rút
hết chất lỏng trong người ra và bơm chất hoá học vào, trang điểm cho người chết, áo
quần liệm, giữ xác trong phòng lạnh, mướn phòng viếng thăm, đem xác ra
vào, lễ viếng thăm, thức ăn, giải khát, tổ chức cử hành tang lễ, in
chương trình tang lễ, cuốn tập ghi khách viếng thăm, vòng hoa trên ngực
và vòng hoa trên giá, tụng niệm tôn giáo, ban nhạc, xe tang chuyển hòm
từ nhà quàn ra huyệt mộ, xe lớn chở thân nhân theo quan tài, xe chở các
vòng hoa ra nơi chôn, đất chôn, đào và lấp mộ, chuẩn bị mặt bằng để làm
lễ hạ huyệt, căng lều, ghế ngồi, xếp đặt việc hạ huyệt, bia mộ tạm, đăng cáo phó,
bia mộ, khắc chữ, dựng bia vân vân, mỗi mục là tính tiền riêng. Chưa
kinh nghiệm thì tưởng chỉ có mua hòm và đât chôn là xong. Cọng tất cả
lại, cũng là số tiền rất lớn, tang gia không ngờ được.”
Bà Hàn hỏi: “Thế thì mục gì mình có thể từ chối, không mua?”
“Còn
tùy cách lựa chọn, thường thì mục nầy kéo theo mục kia, nhưng có nhiều
mục có thể bỏ qua được. Nếu muốn tránh những chi phí linh tinh, thì tốt
nhất là giảm bớt các nghi tức rườm rà, như thăm viếng nhìn mặt, làm lễ
tại nhà quàn. Thân nhân có thể làm lễ tưởng niệm tại nhà thờ, chùa hay
tại tư gia trong khung cảnh nghiêm trang, và bà con đỡ phải cực nhọc
thăm viếng. Người quá cố được đưa từ bệnh viện đến nhà quàn, rồi thẳng ra huyệt mộ. Ngày nay, nhiều gia đình Mỹ tổ
chức tang lễ đơn giản cho người quá cố, chỉ riêng trong vòng bà con
thật gần gũi thân thiết, không tiếp bạn bè, quan khách, không vòng hoa,
không phúng điếu”
Bà
Hàn cắt ngang lời: “Thế thì không sợ người ta nghị dị, chê cười? Thiên
hạ tưởng gia đình keo kiệt, bần tiện, không dám chi tiền, hoặc người ta
chê mình nghèo?”
Bà Kim thở dài: “Quan trọng nhất là ước nguyện của người quá cố. Biết họ muốn gì, và mình làm được gì trong khả năng tài chánh của gia đình. Nhiều người chết, muốn tang lễ đơn giản, mà gia đình sợ bạn
bè bà con dèm pha, phải gồng mình lên chi tiêu, nợ nần, mua lo âu vào
thân. Cách tốt nhất, là mỗi người, làm sẵn di chúc, viết rõ các ước muốn
của mình, trong khả năng tài chánh có thể. Chuẩn bị trước khi chết một
chương trình và lối tang lễ mà mình ưa thích, mong muốn, và hợp
với khả năng tài chánh sẵn có. Đừng để gánh nặng đè lên vai người còn
sống, và đôi khi thực hiện tang lễ trái với ý muốn của mình. Đừng có dặn
miệng thôi, không có bằng chứng, con cháu nhiều người quên mà không ai
nghe. Khi đó, gia đình đỡ bối rối, vì kẽ muốn thế nầy, người muốn thế
kia, gây gổ nhau. Nếu tang lễ có đơn giản, thì cũng không ngại ai chê
cười. Nếu những người có dư tiền, muốn hoang phí đem chôn tiền xuống
đất, thì cũng không ai trách móc . Bà nội tôi ngày trước, muốn con cháu
mặc áo sô, thắt lưng rơm, dép cỏ, khóc lóc, nằm lăn lộn cản đường xe
tang. Thuê thêm người khóc mướn làm điếc tai bàng dân thiên hạ. Thấy
không đẹp, thiếu văn minh. Nghe đâu ông cố nội của tôi chết, hòm quàn
trong nhà gần môt năm dài, tiếp khách viếng tang, chôn xong thì bà cố
chết vì quá mệt nhọc, và gia đình sạt nghiệp.”
Ông Hàn hỏi: “Trẻ như chúng tôi, có nên viết di chúc không? Khi nào là lúc nên viết?”
“Trên
năm mươi tuổi, thì viết được rồi. Những người bệnh nặng, nên viết ngay
là tốt nhất. Tôi biết, nhiều người Mỹ giàu hàng trăm triệu, khi chết
cũng muốn làm đám tang đơn giản, tối thiểu, không cho ai nhìn
mặt, và chỉ có vài chục thân nhân tham dự. Trong nghề, tôi biết khá
nhiều gia đình Việt Nam giàu có, khi chết cũng chuyển xác từ bệnh viện
thẳng đến nhà thiêu luôn, khỏi phải qua nhiều giai đoạn, nghi thức rườm
rà. Rồi bà con bạn bè đến nhà làm lễ tưởng niệm, nhắc chuyện vui buồn
liên hệ đến người quá cố trong không khívui vẻ, bình
thường. Tôi nhấn mạnh ở điểm nầy, nếu không muốn cho thân nhân bối rối
khi mình qua đời, thì mỗi người lớn tuổi, nên viết sẵn lời dặn dò cho
gia đình”
Ông
anh lớn nói: “Theo tôi nghĩ, người Việt mình bắt chước Mỹ, trưng bày
mặt người chết cho bạn bè thân nhân nhìn lần cuối trước khi đem
chôn là một việc làm không nên. Vì dù có trang điểm cách nào đi nữa,
thì khi đã chết, mặt mày cũng không còn dễ nhìn như khi còn sống, nếu
không nói là xấu xí, rờn rợn, hốc hác, tái mét. Cái hình ảnh cuối cùng
trong trí của bạn bè rất quan trọng. Nếu không được đẹp đẽ,
thiếu sống động như xưa, uổng vô cùng. Nhiều lần đi đám tang bà con,
tôi thấy mặt mày người chết hốc hác, méo mó, miệng vẩu, mắt sâu, mà cứ buồn và tiếc mãi, giá như tôi đừng nhìn thấy hình ảnh đó thì hơn, để tôi còn giữ mãi trong trí cái khuôn
mặt vui tươi, rắn rỏi, dễ thương ngày xưa. Nhất là nhiều người bạn, cứ
nhắc đến tên, là tôi mường tượng ra đôi mắt sáng, nụ cười như hoa tươi,
thay được bằng một hình ảnh vêu vao khó nhìn. Tôi cứ muốn quên đi, để
lấy lại hình ảnh đẹp đẽ xưa, mà không được. Tôi chắc không ai muốn bị
bạn bè nhìn họ với một nhan sắc xấu xí cả. Tuy nhiên, cũng có rất ít
trường hợp, thấy mặt người chết đẹp hơn khi còn sống. Đó là những trường
hợp người chết chưa bị bệnh lâu dài, nhan sắc chưa bị tàn phá nhiều. ”
Bà vợ ông Hàn nói: “Theo tôi, thì vì người trang điểm kém, hoặc chi ít tiền trang điểm, nên người chết không được đẹp”
Bà
Kim cười lớn: “Một chiếc xe Ford đời cũ, làm sao mà sửa lại thành đẹp
bằng chiếc xe Mercedes đời mới. Tô trát cũng có giới hạn thôi, ngoại trừ
mang cái mặt nạ khác. Theo kinh nghiệm của tôi, thì không phải đám tang
nào của người Mỹ cũng trưng bày mặt người chết cho bạn bè nhìn. Nhất là
những người đã đau yếu bệnh hoạn lâu ngày, ngay cả khi chưa chết, họ
không muốn ai thấy họ đã ốm o, hốc hác, xấu xí cùng cực.”
Ông Hàn thêm vào câu chuyện; “Khi
làm mặt và trang điểm cho người chết, tôi xem chiếu trong phim tài
liệu, mà sợ. Ngoài việc moi hết tim gan phèo phổi, dạ dày, ruột non ruột
già, thấy người ta còn dùng mấy cây sắt dài chừng nửa
thước, to hơn chiếc đũa, xiên từ trong miệng xuống cổ, vào thân, có lẽ
để giữ cho cái đầu và xác ở vị trí thẳng. Rồi cắt trong nướu, để dùng
dây kẽm may, xâu hàm trên và hàm dưới lại với nhau trong vị trí bình
thường, cho miệng khỏi há ra, và may môi lại với nhau. Dùng
chất dẻo đắp vào các nơi cần đắp. Sau đó, dùng phấn, màu, thoa lên mặt,
tạo thành một lớp giống như da thường. Cắt tóc, cạo hay tiả râu lại cho đẹp. Nếu mình chứng kiến tận mắt khi họ làm cho thân nhân mình, thì đau lòng lắm.”
Ông anh vợ cắt ngang: “Thôi, thôi, dượng đừng nói chuyện đó, nghe mà ghê. Khuất mắt, mình không thấy thì đỡ sợ. Sao không trở lại câu hỏi chính, là làm thế nào để chi phí tang lễ ít tốn kém nhất?”
Bà
Kim cười: “Cách tốt nhất là thiêu xác, và nếu thiêu liền, chuyển xác từ
nơi chết, trực tiếp đến lò thiêu, tang lể làm tại nhà, không
nhìn mặt, thì đỡ được rất nhiều chi phí khác như tẩm liệm, ướp thuốc,
xem mặt, thuê phòng, xe tang. Thường phí tổn chỉ trên 1000 đô thôi.”
Bà
Kim hớp thêm ngụm trà, rồi tiếp: “Có người nói sợ nóng, không dám
thiêu. Nhưng khi chết rồi, thần kinh đã tê liệt, thì đâu biết chi nữa mà
nóng hay lạnh. Nếu còn biết nóng lạnh, thì khi nằm dưới đất lạnh lẽo,
tối om, chật chội, ngộp , dòi bọ vi trùng đục khoét, mặt mày teo rúm, há
hốc mồm miệng, nhăn răng, khô đét, hoặc rữa mũn ra, thì có khó chịu hơn
không? Chưa kể điều mà chủ nghĩa địa bảo là đất ‘vĩnh viễn’, thì thường
là 49 năm hay 99 năm thôi. Sau đó thì thông cáo trên báo chí là sẽ dời
xác. Con cháu có bao giờ đọc đến cái thông cáo nầy, mà có đọc, cũng
không biết đó là mộ của thân nhân mình. Bên Âu Châu, có nhiều hầm nhà
mồ, xương chất đẩy, xương của hàng trăm vạn ngôi mộ được đào lên, gom
lại, xếp đặt hàng triệu miếng xương lẫn lộn , rất mỹ thuật. Luật lệ
nhiều xứ, chỉ cho chôn 5 năm hay 10 năm, hoặc mấy chục năm thôi. Phải
bốc mộ sau thời gian đó. Ít có nơi nào là vĩnh viễn hoặc lâu vài ba trăm năm. Ngày nay tại Mỹ, ngưòi ta càng ngày càng ưa thích việc thiêu xác. Các xứ khan hiếm đất đai như Nhật, và cả Tàu, Ấn Độ, đều thiêu xác. Ngoại trừ những vùng xa xôi, còn giữ lại việc
chôn dưới đất.Theo thống kê năm 2009, thì mười tiểu bang sau đây, có tỷ
lệ thiêu xác cao nhất ở Mỹ: Nevada 73.93%, Washington 69.62%, Oregon 69.24%, Hawaii 68.82%, Vermont 65.67%, Arizona 65.60%, Montana 64.81%, Maine 62.75%, Colorado 62.01%, Wyoming 61.76%”
Bà Hàn xen vào: “Người theo đạo Chúa, có thiêu xác được không?”
Bà Kim cười và tiếp lời: “Mãi cho đến khi Đức Giáo Hoàng Phao LồSáu tuyên bố việc hoả thiêu là không trái với Giáo Luật vào năm 1963 và banăm sau, các linh mục được phép làm lễ cho các đám tang hoả thiêu, thì việchỏa táng được phát triển rất mau. Ngày xưa giáo hữu Thiên Chuá tin rằng, phải còn xác, để chờ ngày phán xét cuối cùng, mà sống lại trên thân xác đó. Chì còn đạo Do Thái là cấm hỏa thiêu thôi, vì họ cho rằng, tro cốt nằm trong hủ, không thể “đất bụi trở về lại với đất bụi được”
Ông Hàn bưng bánh ra mời bà con, và nói : “Ông anh rễ tôi kể rằng, thời
mới chạy qua Mỹ mấy năm sau 1975, anh em đồng khoá Võ Bị Đà Lạt đi thăm
viếng một người bạn đang hấp hối vì bệnh ung thư trong khu chờ chết ở
Viện Phục Hòi. Khi đó, đa số đều độc thân, hoặc vợ con còn kẹt lại ở
Việt Nam, bơ vơ, không bà con thân thích. Anh em thấy ông bạn nằm thiêm
thiếp, bàn nhau đóng tiền thiêu xác. Tưởng hắn mê man không nghe được,
nhưng bỗng hắn mở mắt ra và nói rõ ràng : “Ông cóc muốn thiêu, sợ nóng
lắm. Chôn mà thôi” Đám bạn bè giật mình nhìn nhau. Một ông bạn nóng
tánh, gằn giọng: “Đưa tiền đây, tụi tao chôn cho. Thằng nào cũng rách
mướp, tiền đâu mà chôn mầy.” Một ông bạn khác nháy mắt, rồi nói: “Mầy
muốn chôn cũng được, yên tâm đi.” Khi đi ra ngoải, anh bạn nói: “ Cứ hứa
đại, cho nó yên tâm chết. Sau khi chết rồi, thì cóc biết chó gì nữa,
thiêu hay chôn thì cũng thế.” Thời đó, mới đến Mỹ, người nào cũng đi làm
việc lao động với đồng lương tối thiểu, lo nuôi thân chưa đủ, lại lo
gởi tiền giúp gia đình bên Viêt Nam, tiền đâu mà bỏ ra chôn cất bạn bè,
đòi việc ngoài khả năng, làm sao mà thoả mãn được? Nầy chị
Kim, chị biết tại sao ngày nay người ta chuộng việc thiêu xác hơn là
chôn không?”
Bà
Kim ăn bánh, uống nước, rồi thong thả nói: “Theo nghiên cứu của các nhà
xã hội học, người ta chuộng thiêu hơn chôn vì càng ngày người có học
thức cao càng đông đảo hơn, việc thiêu xác được quần chúng chấp nhận xem như bình thường, đất chôn không còn dễ dàng và rẻ như xưa, tiết kiệm đất đai cho người còn sống, giáo luật không cấm thiêu, tiện lợi, giản dị và tiết kiệm được nhiều thì giờ, giảm thiểu chi phí không cần thiết.”
Một
người khác trong gia đình hỏi: “Tôi nghe nhiều người già mua trước toàn
bộ chương trình tang lễ, từ đầu tới cuối. Khi nằm xuống thì khỏi bàn
cãi lôi thôi gì, và tiền bạc cũng đã thanh toán xong. Gia đình khỏi phải
bận tâm. Việc mua trước đó, có thất không, và có lợi hại gì không?”
Bà Kim gật gù: “Mua trước toàn
bộ các mục cho đám tang cũng là điều hay. Nhưng phải liệt kê rõ ràng
từng danh mục cho minh bạch, đừng thiếu khoản nào. Để sau nầy khỏi phải
trả thêm, vì thiếu sót. Cũng có nhà quàn muốn kiếm chác thêm chút chút,
khi làm đám tang, nói là hòm loại nầy chưa về hoặc mới hết, phải chờ mua
. Nghe chờ mua hòm là đã hết hồn, và chấp nhận trả thêm tiền cho cái
hòm đắt hơn.”
Ông Hàn hỏi: “Có khi nào mình mua trước, tiền thanh toán hết rồi, mà khi chết, họ chối từ làm tang ma hay không?”
Bà
Kim cười khanh khách: “Chuyện gì cũng có thể xảy ra cả. Bình thường,
thì không có chuyện rắc rối đó. Ngoại trừ khi nhà quàn bị đóng cửa, hoặc
đã đổi chủ. Kẹt nhất là khi mình đổi nơi cư trú quá xa nhà quàn ký hợp
đồng làm tang lễ, hoặc mình chết ở một chốn xa xôi nào đó,
mang xác về tốn kém hơn là chôn hay thiêu ở nơi chết. Thường thường hợp
đồng nầy không trả lui được, không chuyển nhượng cho người khác được.
Mua trước cũng có cái lợi, là phí tổn khòi phài tăng theo thời giá.”
Cả nhà mời bà Kim ở lại ăn cơm, để tham dự cuộc họp gia đình và điện thoại khảo giá việc tang lễ. Cả gia đình bàn
cãi sôi nổi, kẻ muốn chôn, người muốn thiêu, bà chị lớn còn muốn làm
đám tang linh đình, đủ các nghi thức rườm rà. Cả nhà cãi nhau thành to
tiếng, mãi chưa đi đến đâu, thì cô Út lấy trong xách tay ra một là thư, nhìn mọi người và nói với giọng run run đầy nước mắt:
“Thưa
các anh chị, em muốn cho mẹ có được một đám tang bình thường như mọi
người. Em để các anh chị quyết định, nhà chúng ta không thiếu tiền,
không cần tiết kiệm. Nhưng các anh chị không đồng ý với nhau, có thể
sinh ra bất hoà, nên em xin trình lá thư của mẹ gởi cho em từ lâu, để
anh chị xem. Đây, em xin đọc lá thư : “...Sau nấy mẹ chết, thì mẹ ước
mong các con làm đám tang đơn giản. Không khăn sô, không tụng niệm,
không để bà con xem mặt, không phúng điếu, không vòng hoa, và mẹ muốn
được thiêu xác. Tro cốt thì đem thả xuống Thái Bình Dương, để mẹ hoà tan
vào biển cả, may ra thấm về thấu tận quê nhà bên kia đại dương. Đừng
chôn tiền xuống đất. Tiền tiết kiệm được đem cúng cho hội từ thiện ..”
Cả nhà trách cô Út tại sao không đưa là thư ra từ đầu, để khỏi bàn cãi lôi thôi, cô khóc mà không trả lời.
Sau khi nhờ bà Kim phối hợp, cả nhà hoàn tất và ký khế ước hỏa thiêu. Chi phí tang lễ chôn cất do nhà quàn đề nghị tổng cọng 34,680 đô, chỉ còn tốn 1676 đô bao gồm toàn bộ thủ tục giấy tờ, chuyển xác, hoả thiêu và bình tro tạm.
Toàn anh chị em trong gia đình góp thêm tiền, đem tặng hội từ thiện 35 ngàn đô. Cả nhà đều vui mừng, nhẹ nhỏm. /.
Tràm Cà Mau
(Tháng 12/2010 những ngáy cuối năm mưa dầm)
No comments:
Post a Comment