KINH CUNG CHI ĐIỂU
Lỗ Trí Thâm
Bà có người
anh ruột, ly khai gia đình theo Việt-Minh từ khi mới 15 tuổi thơ. Năm 1954, khi
tiếp thu Hà-Nội, ông vội vàng tìm em. Tay mới vừa bắt, mặt mới vừa mừng thì lời
nói đầu tiên đầy sợ sệt hoảng hốt: “cô hãy tìm đường vào nam ngay!..”. Và rồi,
sau 30/4/1975, lại một lần nữa, ông vội vào Nam tìm gặp em mình. Dù đã hơn 20
năm sau, vẫn tâm trạng sợ sệt hoảng hốt như xưa, ông nghẹn ngào: “sao không đi
Mỹ ? Khổ rồi !!”
Gần trọn cuộc
đời cống hiến cho “cách mạng”, tới lúc gần đất xa trời, ông được “Bác” và “Đảng”
chiếu cố, cấp cho cái gốc cây đa ở đầu làng: Căng cái bạt, đóng cái kệ, kê cái
ghế... làm nghề “lao động là vinh quang”: Hớt tóc! Miệng ông luôn lẩm bẩm: “bị
lừa.. bị lừa!!”. Và nỗi uất ức “bị lừa” này khiến ông vẫn cứ lẩm bẩm câu ấy tới
tận giây phút nhắm mắt lìa trần.
Trong suốt những
năm dài “học tập cải tạo”, tôi được người của “đỉnh cao trí tuệ” “giáo dục” rằng
“khỉ là tổ tiên của loài người”; Và tiến trình văn hóa bắt đầu từ “đồ đá.. đồ đồng..
qua tới đồ “Độc”, đồ “Đểu”; Sau cùng, tiến lên “Tư-Bản Xã-Hội Chủ-Nghĩa!”.
Vậy thế nào
là đồ “Độc”? Tôi có người bác họ, trước ngày 30-4-1975 ông nhất định ở lại,
không theo vợ con di tản. Ngày đó ông đã ngoài sáu mươi, người hom hem như cây
sậy, ông nghĩ ở lại chắc Việt Cộng chẳng tính tới ông, vì suốt cuộc đời ông chỉ
là một anh thư ký quèn! Cái nghề cạo giấy, trói gà không chặt, lính Việt-Nam-Cộng-Hòa
chê! Thế nhưng ngày “đại thắng mùa xuân”, lính “cụ Hồ” vào Sài-Gòn chia nhau
đóng quân rải rác trong nhà dân. Nhà ông bác tôi cũng bị “chiếu cố”. Mười tên
cán ngố “cơm niêu, nước lọ” ở nơi rừng rú đã quen, nay vào thành phố văn minh,
không biết sử dụng những tiện nghi “hiện đại”! Ăn ở bừa bãi, bê bết, bẩn thỉu,
bụi bậm v..v.. Bác tôi không chịu được, ôn tồn đề nghị họ luân phiên ở các nhà
khác. Chúng không chịu.. cứ ở lì! Bác tôi khóa nước, tắt điện. Ông bắc võng nằm
trước nhà nhìn chúng sinh hoạt. Cuối cùng chúng chịu thua, dọn sang nhà hàng
xóm. Khi ra khỏi cổng nhà, tên đội trưởng quay lại nói: “Rồi mày sẽ biết tay
ông!”. Vậy thì “tay ông” ra sao?*Chị người làm sau ngày “giải phóng” đã xin nghỉ,
đột nhiên trở lại thăm ông. Sau những câu hỏi thăm tình nghĩa, chị góp ý: “Bà
và các cô cậu ra đi để lại ông một mình, nay ông phải tự lo mà sống, con đề nghị
ông mang cái bàn nhỏ và cái máy đánh chữ ra để ở đầu ngõ, đánh máy thuê, may kiếm
được đồng vào đồng ra cho qua ngày”.. Sau khi chị người làm giã từ, ông suy
nghĩ thấy có lý. Ngay hôm sau, người qua lại đã thấy ở đầu ngõ xuất hiện một
ông già đánh máy thuê. Ngày qua ngày, tạm đủ sống. Ông nghĩ tới chị người làm
trung thành tốt ý mà mang ơn! Thế nhưng, chợt một hôm chị người làm lại xuất hiện.
Lần này chị mang đến cho ông một tin mừng, chị đưa ra một xấp giấy đề cập tới
những người làm sở Mỹ trước kia sẽ được Mỹ can thiệp cho đi, đặc biệt với ông
vì có bà nhà đã làm sở Mỹ. Chị yêu cầu ông gấp rút đánh máy ra nhiều bản để chị
bán cho những người làm sở Mỹ còn kẹt lại, và hẹn hôm sau chị trở lại. Ông thức
gần trắng đêm để đánh vội ra nhiều bản, và chờ! Tội nghiệp, Thay vì chị người
làm “trung thành” thì là những tên công an áo vàng ập đến! Khám xét, hò hét.. Rồi
cái gì xảy đến? Ông bị bắt vì tội “âm mưu phát tán tài liệu phản động”. Còng
tay, bỏ tù, giam ở nhà tù Phan-đăng-Lưu. Sau đó đưa đi đâu không ai hay biết,
vì không có thân nhân! Cuối cùng, không bao giờ ông trở lại mái nhà xưa! Căn
nhà của ông ít lâu sau người ta thấy có người ở, lớn bé, nói tiếng Bắc giọng
léo lắt, lượn lẹo.. khó nghe. Hơn ba mươi năm qua, các con ông mòn mỏi tìm xác
cha mình nhưng vẫn biệt vô âm tín. Tóc họ đã hoa râm, nhưng hàng năm vẫn thay
phiên nhau về quê cũ, đứng trước cửa nhà xưa, tay cầm nén nhang tưởng nhớ cha
mình, hồi tưởng một thời thơ ấu trong căn nhà êm ấm hạnh phúc của một thuở đất
nước thanh bình thịnh vượng!
Phần tôi,
trong âm thầm tận cùng ở đáy lòng, tôi ước mơ ở tuổi già, tôi và họ quên được
những hận thù để nhẹ nhàng ra đi. Nhưng dễ gì! tâm tư nào hóa giải được nỗi đau
tình phụ tử, lòng hiếu đễ?
Ngày giỗ mẹ
tôi, đứa cháu lớn hỏi tôi rằng: “Cụ nội bị 'kinh cung chi điểu', thế còn ông nội
thì sao?”. Tôi không trả lời, vì ở tuổi chúng chưa biết gì về hận thù! Thế
nhưng câu hỏi đó đã đánh thức trong tôi niềm đau ngủ yên của những năm tháng tù
đày. Những cái “Độc”, cái “Đểu” của người Bắc Việt-Cộng ở những ngày xa xưa nơi
rừng thiêng nước độc mà tôi và các chiến hữu của tôi đã nhiều lần chết hụt lạnh
người, lại từ ký ức lũ lượt trở về. Vậy thế nào là đồ “Đểu”?
Ngày
29-6-1976 trên bến Hạ-Lý, Hải-Phòng, miền Bắc, trước mặt chúng tôi (những tù bại
binh biệt xứ), một tên bộ đội sau khi dựng chiếc Vespa màu xanh dương (cướp được
từ miền Nam), hắn chậm rãi mở cốp xe lấy ra một lá cờ vàng ba sọc đỏ rồi từ từ
hắn lau xe, hắn lau khắp “thân thể” cái xe. Cuối cùng khi lau tới cái yên xe, hắn
quay mặt nhìn chúng tôi.. cười đểu. Ngày đó tôi ghi nhận được nỗi đau đớn uất hận
hằn lên khuôn mặt những đồng đội tôi! Những ánh mắt đổ lửa của thân phận tù đày
ở ngày xa xưa đó, còn đeo đẳng tôi tới hôm nay! Cũng chính ngày đó, trước khi
chích ngừa tù binh, tên bác sĩ Việt-Cộng qua loa phóng thanh, hắn cao giọng
nói: “Đây là miền Bắc Xã-Hội-Chủ-Nghĩa lành mạnh, các anh sẽ được tiêm phòng để
ngừa những bệnh truyền nhiễm của miền Nam ở trong người các anh”. Thế nhưng mỉa
mai thay, chỉ ít tháng sau, Sài-Gòn bị dịch ghẻ ngứa chưa từng có, tràn lan khắp
nơi. Người dân nhỏ to: “bộ đội và bọn thổ phỉ miền Bắc mang vào!” Một tên cai
tù trả lời “anh vào hỏi nợn” sau khi một chiến hữu của tôi hỏi xin hắn cho nhặt
những mẩu đầu gân khoai mì mà lợn chê, nằm dưới hố rác đã nhiều ngày. Tôi không
sao quên được nét mặt thèm khát và thất vọng của người chiến hữu ấy! Thật là đểu
cáng và tàn nhẫn. Làm sao có thể tìm được trên trái đất này một tên cai ngục đểu
độc như tên cai tù Việt Cộng kia?
“Ngụy quân,
ngụy quyền”.
Trong một lần
khác, một tên cai tù nhẹ nhàng kể với tôi: “Thời thơ ấu, hắn và các bạn thường
nghịch ngợm phá phách hàng xóm. Mỗi lần hư hỏng như vậy, mẹ hắn thường chửi hắn
"thằng ranh con nghịch như ngụy".” Sau đó hắn nhìn tôi cười đểu.
Những cái đểu
như đã có sẵn bàn bạc khắp trong người dân thường cho đến kẻ lãnh đạo ở miền Bắc!
Hồ-chí-Minh khi còn sống, đánh chiếm miền Nam, ông xúi bọn Mặt-Trận Giải-Phóng
Miền Nam rằng: “Miền Nam đi trước, về sau”. Bọn Nguyễn-hữu-Thọ, Nguyễn-thị-Bình,
Trịnh-đình-Thảo, Trần-văn-Trà v.v.. tưởng bở, cắm đầu đánh chí mạng! Sau
30-4-1975, Mặt-Trận bị giải tán; Lính nón tai bèo cùng những thủ lãnh lũ lượt
lơ láo bị cho về vườn. Bọn Bắc Việt Cộng-Sản chính hiệu tràn vào. Cướp của, lấy
nhà, chia nhau chức trọng quyền cao; Tham ô, hủ hóa, ăn cắp, ăn trộm v.v.. Mà
“mức độ lẫn cường độ” tăng lên mãi tới ngày hôm nay! Kết quả, dân chúng Nhật-Bản
phải phong cho Đảng và Nhà-Nước Việt-Cộng cái tên là “Tập đoàn lãnh đạo giòi bọ
!”
Trong cuộc cầu
nguyện lặng lẽ cho hòa bình của giáo dân ấp Thái-Hà, đòi lại đất đai của giáo xứ
bị cướp cạn từ nhiều năm qua, đã bị con cháu “bác Hồ”, người “đầy tớ nhân dân”,
chơi đểu bằng trộn lẫn nước tiểu và phân người, rải rắc vung vãi khắp nơi quanh
nhà thờ. Cuối cùng, cả đức Tổng-Giám-Mục Hà-Nội lẫn giáo dân “chào thua”! Phần
đất đó được bọn người “đểu” biến vội thành công viên.
Thiền sư
Thích nhất Hạnh sau bao năm lưu vong, được chúng cho phép về quê hương yêu dấu!
Hí hửng dẫn theo cả đoàn tăng ni Việt có, Tây có, rầm rộ cờ xúy diễn hành từ
Nam ra Bắc.. Cầu siêu.. Cầu hồn.. Được chủ tịch nhà nước Việt cộng Nguyễn minh
Triết khen: “Thiền sư Thích nhất Hạnh và đoàn tăng thân Làng Mai đã có
những đóng góp tích cực vào hoạt động tôn giáo ở Việt Nam..” Được lời như cởi
tấm lòng, thiền sư vội vàng bỏ ra cả triệu đô la Mỹ, lập dựng tu viện Bát-Nhã ở
Bảo Lộc, tập trung được 400 tăng sĩ nam nữ. Mới chưa được bao lâu thì nhà nước
xem ra thấy không ổn, bèn cho bọn côn đồ lưu manh tới phá phách, dùng bạo lực
đánh đuổi tăng sĩ ra khỏi chùa! Dư luận đàm tiếu thì Nhà Nước giải thích đó là
hành động tự phát của nhân dân!
Những đòn “đểu,
độc” không những chỉ ra chiêu với đối tượng không phải Cộng Sản, mà ngay trong
đảng viên CS chính hiệu cũng chơi nhau sát ván! Đơn cử như ông Hoàng minh
Chính, viện trưởng viện triết học Mác và Lenin của Hà-Nội được Nhà nước cho qua
Mỹ chữa bệnh. Ngày 28-9-2005, ông “Triết gia” phát biểu tại trường đại học
Harvard về tính chất không thật của chủ nghĩa Marx và Engels, đồng thời đề nghị
dân chủ cho Việt-Nam. Khi trở lại Sài-Gòn, liền bị một nhóm côn đồ dến trước cổng
vứt phân người vào nhà ông. Ông đưa đơn khiếu nại thì chính quyền giải thích đó
là hành động tự phát của nhân dân!
Gần đây nhất
là vụ cướp đất trắng trợn và tàn bạo. Khổ chủ là Đoàn văn Vươn, một cựu bộ đội ở
huyện Tiên-Lãng Hải Phòng, bị nhà nước phá nhà, cướp đất công khai bằng bạo lực.
Bị đẩy vào đường cùng, Đoàn văn Vươn đã dùng súng và lựu đạn để chống lại sự ức
hiếp tàn bạo đó. Sự kiện chính những người “cùng là Việt-Cộng” chơi đểu lẫn
nhau đã không thể che dấu được dư luận trong nước và thế giới. Cuối cùng Đoàn
văn Vươn bị bỏ tù, nhà cửa bị giật sập, san bằng. Chủ tịch huyện tuyên bố:
“nhân dân bức xúc vì hành động sai trái của Đoàn văn Vươn nên kéo nhau tới san
bằng nhà của anh!!..”
Bây giờ,
tháng này, ba mươi bảy năm về trước, ngày 30-4-1975 (*); ngày mà miền Nam thân
yêu rơi vào tay bọn Bắc Việt-Cộng. Chúng cướp bóc, bỏ tù, trả thù, chém giết,
đày đọa... Đất nước gặp khổ nạn! Cả miền Nam tràn ngập máu lửa, hừng hực hận
thù. Kinh hoàng, hoảng hốt, người dân lành vô tội ùa nhau băng rừng vượt biển
chạy trốn! Người chết nổi, kẻ chết chìm, xác người bồng bềnh phủ kín biển Đông!
Người dân miền Nam gọi tháng đó là “Tháng Tư Đen”!
Bản thân tôi
giờ đây có được những tháng năm cuối đời sống bình an, hạnh phúc, no ấm, an
nhàn ở đất nước tự do này là nhờ tấm lòng nhân ái của người chủ nhà, một dân tộc
hiếu khách, hiền hòa, thẳng thắn và.. ngây ngô trước những cái “độc”, cái “đểu”
của kẻ khác! Cho nên, những năm tháng còn lại ở cuối đời, tôi thường tự nhủ:
“ơn hãy đền, nhưng thôi.. oán đừng trả!” Ơn cha ơn mẹ, ơn bạn bè thân thích; ơn
đồng bào miền Nam yêu thương, hiền hòa; ơn tổ quốc miền Nam tự do no ấm; ơn dân
tộc Mỹ cưu mang dung chứa... Tôi sẽ đền ơn họ bằng sự kiên định lập trường ở
biên giới Quốc-Cộng: Không chao đảo, bấp bênh, bội bạc! Còn đối với đất nước của
người nhà chủ này, tôi nghiêm khắc với con cháu mình trong học hành, phát huy,
tận tụy, nỗ lực, tận tình đóng góp cho xứ sở mà chính mình đang dung thân!
“Oán không trả”!
Những vết
thương tuy đã đóng vẩy liền da qua nhiều năm tháng.. Thế nhưng gặp phải những
ngày trở mưa trở gió, tránh sao không khỏi nhức nhối? Nhiều bạn trẻ trách tôi rằng: “sao cứ
thấy hình ông Hồ-chí-Minh thì phát dị ứng khó chịu?” Tôi thừa nhận
điều đó. Vì chính ông ta là “cây cung” đã làm hoảng sợ mẹ tôi, bác tôi, bản
thân tôi và những người tôi thân thiết. Từ biệt quê hương yêu dấu đã lâu năm,
lòng hoài cảm, tình hoài hương luôn chập chờn thôi thúc... nhưng chưa một lần
thực hiện được. Cũng chỉ tại cái “cây cung Hồ-chí-Minh” kia in trên đồng tiền ở
Việt-Nam đang luân lưu trên tay người dân mua bán, tiêu xài. Về thăm quê hương
yêu dấu mà phải để cả triệu đồng tiền giấy có hình ông Hồ trong túi quần túi áo
của mình qua ngày qua đêm thì… kinh hoàng quá! Thôi thì quê hương yêu dấu dù có
như chùm khế ngọt cũng đành nén lòng nhớ nhung... Chờ đợi vậy!
(*) 37 năm, tính từ 1975, tức là bài viết vào năm 2012. Đuợc
đăng lại trên BaCayTruc sau 7 năm - Ngày đăng: 2019-09-23.
No comments:
Post a Comment