Một số linh mục Việt Nam tại Houston nên xét lại
thái độ “quay lưng” với quê hương mình.
Nguyễn Phi Thọ
BBT: Đây
là một bài viết cách đây 5 năm mà mãi đến bây gìờ chúng tôi mới đọc được. Những
tệ trạng mô tả trong bài viết là chuyện đã xảy ra trong quá khứ, nhưng không
biết hiện nay đã có sự cải thiện nào để thích nghi với hoàn cảnh của hiện tại
hay chưa. Nếu quý vị chưa đoc thì nên đọc qua để tìm hiểu và có ý kiến để sửa
đổi tệ trạng đó nếu nó còn dai dẳng tồn tại.
Khi tôi viết lên những dòng chữ nầy, tôi cảm thấy không vui chút nào. Và
tôi lại càng đau hơn khi biết rằng mình là một người Công giáo đang nói về
chuyện linh mục, người chăm lo phần hồn cho tôi và hiểu sẽ làm họ không vui.
Nhưng tôi phải nói.
Tôi không dám viết về chuyện Giáo hội bên quê nhà hay Tòa thánh Vatican
đang trong cơn thử thách với nhiều lời người khen kẻ chê, người tấn công kẻ lo
bảo vệ. Hai ông Lữ Giang và Trần Phong Vũ là những người Công giáo nhưng không
cùng đứng chung một chiến tuyến dưới cái nhìn những gì đang xảy ra cho Giáo hội
trên quê hương. Mỗi ông là một khẩu đại pháo để bảo vệ Giáo hội, nhưng tiếc
thay nòng súng không quay về hướng đang làm khốn khổ Giáo hội, mà quay vào nhau
để bảo vệ chân lý của mình để rồi quên mất việc bảo vệ Giáo hội. Chúng ta ở
ngoài nước biết rõ Giáo hội đang làm gì, nhưng làm sao biết đích thực Giáo hội
đang muốn gì. Các ông ấy chỉ chỉ biết suy luận rồi giải thích theo lý trí mình
để hướng dẫn quần chúng. Đây là một việc làm nguy hiểm. Nhưng họ có tự do, có
ngòi bút hay máy điện toán trong tay, họ muốn nói sao cũng được. Riêng cá nhân
tôi, tôi có bút có mực, có máy điện toán nhưng không thể vì có tự do để viết
voi vẽ chuột vẽ những gì Giáo hội đang làm. Tôi không muốn hướng dẫn quần chúng
khi chính tôi chưa hưóng dẫn được những chao đảo bất nhất đang xảy ra trong
lòng.
Quả thực, nhìn bên ngoài, ai cũng có những cảm nghĩ giống nhau: Giáo hội
và hàng Gíao phẩm Việt Nam nhượng bộ cộng sản qúa mức. Họ đã trưng ra những lời
Chúa nói trong Thánh kinh để bảo vệ cho lập luận của mình là đúng, Giáo hội
đang làm sai. Đó là lý trí suy đoán của ông Trần Phong Vũ. Nhưng những người
như ông Lữ Giang, ông cũng trưng lời Chúa trong Thánh kinh, lời các Gíam mục
trong nước tuyên bố để kết luận rằng Giáo hội đang làm đúng và đi đúng đường.
Người giáo dân ở hải ngoại, kể cả ở trong nước, họ có chịu nghe hai ông vẽ rồng
thêm cánh, vẽ rắn thêm chân hay không, đó lại là chuyện khác. Vì không rõ,
không biết, không thấy nên tôi không nói như hai ông ấy. Nếu là người Công giáo
tin có Thiên Chúa luôn đứng bên cạnh Giáo hội, thì tôi nghĩ Thiên Chúa sẽ hướng
dẫn Giáo hội. Gần 7 triệu người Công giáo tại Việt Nam và luôn cả Tòa thánh
Vatican đang cầu nguyện cho giáo hội Việt Nam, vậy thì Chuá sẽ nghe lời cầu
nguyện của tập thể đó hay là nghe hai ông Lữ Giang và Trần Phong Vũ. Và Ngài
không hướng dẫn hai ông Trần Phong Vũ - Lữ Giang nhưng Ngài sẽ hướng dẫn Giáo
hội (?). Vậy thì tin hai ông ấy làm gì?
Nhưng tôi không đồng ý những việc gì Giáo hội hay các phẩm trật cao cấp
trong Giáo hội làm cũng đều đúng, mặc dù mỗi lần như thế các Ngài đều cầu
nguyện để xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. Khi làm đúng, dĩ nhiên là do Thánh
Thần hướng dẫn, nhưng khi làm sai không thể nói là Thánh Thần hướng dẫn. Chớ
nên biện minh những hậu qủa của con người làm vì quyền lợi, vì yếu đuối hanh
danh vọng để biện minh cho là Thánh Thần soi sáng. Không có Thánh Thần nào gắp
bỏ vào miệng Hồng Y Mẫn để Ngài nói rằng hãy xoá bỏ hai chữ “tỵ nạn” để thay
thế bằng thứ vì “miếng cơm manh áo”. Lại càng không phải Thánh Thần bắt Hồng Y
Mẫn phát biểu lá cờ Việt Nam Cộng Hòa làm cản trở sự hiệp thông giữa giới trẻ
trong và ngoài nước. Đây là sự xuất phát nơi cá nhân con người tự nó đã
yếu đuối và khiếp nhược, sợ khổ muốn sướng, muốn được lòng kẻ khác để mình bình
an trước những khốn khổ của đồng loại. Đừng đổ cho Chúa Thánh Thần kẻo tội
nghiệp Ngài.
Có lẽ tôi đã đi qúa xa về đề tài tôi đang muốn nói ở trên chăng?
Trong đêm 25 tháng 4, Cộng đồng người Việt tỵ nạn tại Houston đã tổ chức
tưởng niệm 35 năm ngày 30 tháng Tư người Việt phải trốn Cộng sản bỏ nước ra đi.
Đây còn là một ngày để nhắc nhớ người Việt đừng quên tiếp tục tranh đấu cho tự
do dân chủ ở quê nhà; đừng quên tìm kiếm một ngày về sống trên quê hương dưới
một thể chế tự do, công bằng và nhân ái. Đã có hàng ngàn người đến tham
dự. Trong số những giới chức, có cả những vị lãnh đạo tôn giáo như
Phật giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành, nhưng tôi không thấy bóng dáng một vị
linh mục, thậm chí đến người mang danh là Chủ tịch linh mục đoàn, đại diện Giám
Mục giáo phận hay một ông một bà nào được gọi là thay mặt giáo dân Công giáo
Houston tân đến tham dự. Ống kính của các đài truyền hình cứ quét
qua quét lại hàng ghế dành cho các vị đại diện tôn giáo... như là một nhắc nhở
người tham dự thấy rằng không có thành phần đại diện Công giáo. Họ đã quên tổ
quốc!. Tôi hòa mình trong đám đông dân chúng, lắng nghe những lời trách mắng
rất xách mé về sự không có mặt người đại diện Công giáo hôm nay. Tôi có ý định
nhảy phóc lên lễ đài, cướp lấy micro để hét to lên rằng: “Tôi là người đại diện
cho Cộng đồng Công giáo Việt Nam tại Houston đây”. Nhưng đành thôi. Vì biết
rằng sẽ làm náo loạn và bất ổn cho buổi lễ trang nghiêm đang diễn ra. Tôi quay
trở lại chiếc bàn đang được các em tặng “Tự Do Trên Biển Máu” cho
người đồng hương, nói chuyện về cuốn sách với các thân hữu cho nhẹ bớt đi sự
tức giận đang cuồn cuộn trong người.
Người ta tự hỏi tại sao? Các linh mục Việt Nam tại đây phải chăng là
những kẻ vô gia đình, vô tổ quốc? Vô gia đình là đúng rồi. Phải hiểu nghĩa vô
gia đình ở đây như là một ý tưởng cao xa hơn là hiểu kẻ vô gia cư, không nghề
nghiệp, homeless. Đức Giáo Hoàng Phaolo II khi đến Á Châu, Ngài có nhận xét
rằng: Phật giáo là một tôn giáo vô thần. Lời tuyên bố của Ngài gây ra nhiều
tranh luận sôi nổi từ phía các nhà sư Phật giáo bên ấy. Nhưng nghĩ sâu xa hơn,
lời phát biểu của Ngài là đúng. Vô thần ở đây, dưới cái nhìn của Ngài, Phật
giáo không tin tưởng vào đấng thần linh. Các vị cao tăng Phật giáo cũng thường
giảng dạy cho tín đồ hiểu rằng Đức Phật cũng là một con người bình thường. Ngài
không phải là đấng thần linh và Ngài cũng không ban ơn xuống phúc cho ai được.
Ngài là một hoàng tử bỏ cung điện, lìa xa gia đình để đi tìm chân lý, giải
thoát cái khổ. Và cuối cùng Ngài đã đạt được ý nguyện của Ngài rồi trở thành
Phật. Ngài đúng là một đại triết gia của một chủ thuyết đại bi đại lượng. Ngài
không phải là một thần linh. Đây chính là cái chìa khóa để vị Giáo Hoàng Phaolo
II nói rằng đạo Phật là vô thần. Vô thần ở đây không có nghĩa giống như bọn
Cộng sản vô thần. Do đó, khi nói tới vị linh mục vô gia đình cũng cùng nghĩa
như thế. Linh mục không có vợ nên không có gia đình.
Tổ quốc ở trần thế và Tổ quốc trên Thiên đàng.Với những linh mục tại
Houston, họ đang hướng về Tổ quốc nào?
Con người có tổ quốc không phải chỉ nói bằng cái lưỡi qua cửa miệng. Họ
còn phải biểu lộ tấm lòng và hành động mới là người có tổ quốc. Người
chiến sĩ đã biễu lộ tấm lòng bằng cách họ phải trả cả sinh mạng mình để
bảo vệ nó. Người dân thường thì có nhiều hành động khác nhau để biểu lộ họ có
tổ quốc và yêu mến quê hương. Tối ngày 25 tháng 4 vừa qua tại Houston, có hai
địa điểm tại tượng đài chiến sĩ và nơi hành lễ tại khu chợ Hồng Kông. Buổi lễ
tại tượng đài là để tri ân các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa và Đồng Minh. Buổi lễ
tại khuôn viên chợ Hồng Kông là đêm người Việt tỵ nạn biểu lộ họ đang hướng về
tổ quốc. Họ không cần biết người tổ chức đêm đó là ai, là kẻ dấn thân cho cộng
đồng hay thuộc phe nhóm nào; nhưng họ biết rằng đêm đó là đêm tưởng nhớ về quê
hương đang đắm chìm trong một chế độ vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo. Họ
cũng biết rằng đêm đó còn là đêm cầu nguyện cho hơn 80 triệu đồng bào ruột thịt
đang bị khốn khổ vì chế độ, cầu nguyện cho các anh linh tử sĩ đã chết để bảo vệ
bình yên và tự do cho đồng bào. Sự hiện diện của họ đã nói lên rằng họ là những
người có tổ quốc và biết nhớ về tổ quốc.
Nếu hiểu như vậy thì những ai không đến tham dự phải chăng là những kẻ
vô tổ quốc? Thưa không.
Mỗi người có một cách yêu mến tổ quốc của mình. Tuy nhiên họ chỉ là cá
nhân, và họ cũng chẳng bao giờ đứng trước quần chúng để kêu gọi lòng yêu mến
quê hương. Nhưng hàng linh mục lại khác. Qúy vị là người của quần
chúng. Tiếng nói họ không phải chỉ cho một người nghe mà cho cả cộng đồng dân
Chúa, kể cả những người không phải con Chúa nghe. Lúc nào họ cũng rĩ rã kính
Chúa yêu người trên tòa giảng, lúc nào cũng kêu gọi giáo dân phải yêu mến quê
hương và đồng lọai. Nhưng cá nhân họ thì chỉ biết nói mà chẳng bao giờ làm.
Thử hỏi tại Houston, có bao nhiêu linh mục xuất hiện cùng giáo dân, đồng bào
trong những buổi lễ hướng về quê hương? May lắm lâu lâu mới có một lần. Họ tham
dự trong phong cách không mấy “thoải mái” và thái độ có vẻ miễn cưỡng.
Người giáo dân không đòi hỏi họ phải hòa nhập vào đám biểu tình để hoan hô đá
đảo, cũng không muốn họ phải ký tên tuổi mình trong những bản kiến nghị đòi hỏi
tự do dân chủ cho người trong nước, cũng không bắt họ phải có mặt bất cứ lúc
nào cộng đồng có tổ chức những lễ lạc hướng về quê cha đất tổ, gốc gác giống
nòi. Nhưng người giáo dân chỉ muốn, ít nhất mỗi năm một lần, (họ phải có mặt) trong
ngày tưởng niệm người Việt phải bỏ quê hương ra đi trốn cộng sản.
Ở Houston có bốn thánh đưòng của người Việt thật đồ sộ. Hàng
năm nhà thờ nào cũng tổ chức hai ba hội chợ, nhạc hội, tiền đồng hương đổ vào
như nước tha hồ thuê ca sĩ về xây dựng nhà Chúa. Thế thì sao các linh mục chánh
xứ không ngồi lại với nhau, mỗi năm một nhà thờ tổ chức lễ cầu nguyện cho quê
hương đất nước trong ngày 30 tháng tư? Trong thánh lễ, qúy vị cầu
nguyện cho quê hương, cho Giáo hội Mẹ và cho đồng bào tại quê nhà, trong lúc
chúng ta ở đây được sung sướng dư thừa về vật chất, tự do tư tưởng để giữ
đạo. Tại sao qúy vị tổ chức hội chợ hàng năm được, nuôi ca sĩ được,
làm giàu cho các chủ vựa crawfish được mà một thánh lễ như vậy lại không làm
được? Những thánh lễ như vậy, không những người giáo dân trong họ đạo
mà người đồng hương khác tôn giáo cũng đến tham dự vậy. Họ đến không phải để
theo đạo mà đến để chia sẻ với một nhà thờ Công giáo quốc gia biết nhớ đến đất
nước, chiến sĩ đã khuất và đồng bào lầm than ở quê nhà. Biết đâu họ lại yểm trợ
tiền bạc cho họ đạo dồi dào thêm mỗi khi có hội chợ qúy vị tổ chức.
Thậm chí đã 30 năm tôi sống tại thành phố nầy, tôi chưa bao giờ thấy một
nhà thờ Việt Nam nào có một thánh lễ cầu nguyện cho quê hương trong ngày 30
tháng tư, tôi chưa bao giờ nghe một lời nói nào trên tòa giảng xin giáo dân
hướng về quê hương đang khốn khổ trong ngày nầy. Tôi đã nhắc nhở nhiều lần,
nhiều năm trên báo Đất Mẹ, nhưng như “nước đổ lá môn, đàn khảy tai trâu”.
Những biến cố người công giáo và giáo sĩ bị bức tử ở Thái Hà, Tam Tòa, Đồng
Chiêm, những người Công giáo bất khuất là anh em của họ như linh mục Nguyễn Văn
Lý, là giáo dân như Lê Thị Công Nhân nằm dài trong chốn lao tù... tôi chưa bao
giờ nghe một lời chỉa xẻ nào từ cửa miệng của các linh mục ở đây.
Họ đến đây (tối 25 tháng 4) không phải tham dự một buổi
chống Cộng qúa khích, cực đoan hay biểu tình bạo động, nhưng với tâm lòng cầu
nguyện cho quê hương dân tộc, tưởng nhớ cái ngày cuộc chiến chấm dứt với bao
đau thương khốn khổ phủ lên đầu người dân miền Nam, hoặc ít ra có vẻ lạc
điệu với ý nghĩa “nhờ” có ngày 30 tháng 4 nên mỗi linh mục đều lãnh đạo được
một họ đạo trù phú giàu sang; có nhà có xe, có lương tiền bổng lộc,
có bảo hiểm sức khỏe nhân mạng, có cuộc sống bình an tự do nơi đất nước đã đón
nhận họ sau khi thoát chạy vào ngày đau thương nầy. Nhưng với họ, đó là
chuyện đã qua. Quê hương là cái gì? Có thể nó trở thành vô nghĩa. Quê hương
chẳng giúp gì được cho một linh mục khi bổn phận họ chỉ biết lo phần hồn cho
giáo dân. Nhưng nếu có một nhà tỷ phú nào đó mời vị linh mục chánh xứ tới nhà
để trao tặng một món tiền vài triệu Mỹ kim, họ sẽ đến hay từ chối vì lý do đây
không thuộc về việc đạo? Họ chỉ cần làm chánh xứ một họ đạo đã có vài ngàn giáo
dân bao quanh tôn thờ. Họ bám víu vào lực lượng nầy là đủ để họ có tất cả, chưa
kể hàng ngàn hàng vạn con crawfish yểm trợ sau lưng, hàng loạt hội chợ nầy hội
chợ kia tiếp nối thu tiền để “mở mang nước Chúa”. Tôi hiểu có những giáo xứ mà
nhà thờ đáng gía 6,7 triệu Mỹ kim, những hội trường 4, 5 triệu Mỹ kim. Tiền
bạc đó là nhờ sự đóng góp, cho vay không lãi của giáo dân trong giáo xứ, hoặc
vay mượn từ nhà Băng hay từ Giáo phận. Nhưng ngoài ra, giáo xứ còn được sự yểm
trợ qua nhiều hình thức khác nhau của các cơ sở thương mại, tư nhân, mạnh
thường quân mà những người nầy không là công giáo. Họ yểm trợ giáo xứ của qúi
vị không vì qúi vị làm hay, làm tốt, làm đúng, nhưng họ thấy lá quốc kỳ VNCH
đang bay trong công viên của nhà thờ. Họ biết rằng đây là một giáo xứ đích thực
của người Việt tỵ nạn từ vị chủ chăn cho tới giáo dân đầy tinh thần ái quốc.
Qúy vị có nhìn ra điều đó không? Vậy thì (Theo họ) sự có mặt
trong ngày tưởng niệm 30 tháng 4 có mang lại lợi lộc gì nữa đâu; nó không còn
cần thiết, biết đâu lại còn mang họa vào thân khi về thăm bà con bên quê
nhà (?)
Người giáo dân ở Houston tự hỏi tại sao các nơi khác như Nam và Bắc
California, Washington DC, Massachusets, Boston... có nhiều linh mục Việt Nam
tham dự trong ngày 30 tháng 4 đánh dấu 35 năm, nhưng chỉ có Houston thì không?
Có thể câu trả lời (của họ) cũng dễ hiểu: lòng yêu
mến tổ quốc cần gì phải biểu lộ ở những chỗ đó, nhưng về thăm Việt Nam hàng năm
cũng đủ chứng tỏ mình yêu mến quê hương rồi, còn đòi hỏi gì nữa.
Tôi đau lòng về sự vắng mặt của hàng giáo sĩ và cộng đồng Công giáo Việt
Nam trong ngày 30 tháng 4 vừa qua, vì rằng lý do không phát xuất từ lệnh cấm
đoán của Tòa Tổng Giám Mục Giáo phận Galveston/Houston.. Hồng y và các Giám mục
Mỹ không quan tâm về sự có mặt các linh mục trong ngày 30 tháng 4. Đôi khi họ
còn muốn khuyến khích là đàng khác. Trong mỗi bài giảng ngày đại lễ Giáng Sinh
hàng năm, tôi nghe hàng Gíao phẩm Hoa Kỳ luôn ca ngợi lòng đạo đức và yêu mến
quê hương của giaó sĩ và giáo dân Việt Nam. Thế nhưng có lẽ hàng Giáo phẩm địa
phương đã lầm. Các vị nầy chưa bao giờ tham dự những buổi lễ hướng về quê
hương hay đấu tranh và đòi hỏi tự do dân chủ cho Việt Nam nên họ đã lầm về lòng
yêu mến quê hương của các linh mục Việt Nam. Riêng với người giáo dân, họ không
bao giờ lầm, và họ còn hiểu rõ tại sao các linh mục tránh né khi xuất hiện
trước ống kính truyền hình trong những ngày nầy. Nhưng tôi rất buồn cho vị linh
mục chủ tịch Cộng đồng Công giáo. Chính vì ông cố tình (hay vô
tình) thờ ơ, không muốn nhắc nhở các linh mục cử một linh mục đến tham dự.
Cũng có thể việc nầy đã xảy ra nhưng các linh mục khác đều từ chối. Nếu linh
mục tới không được thì có một giáo dân thay mặt như Chủ tịch HĐMV Giáo phận
tới. Ít ra đồng bào tham dự biết có sự hiện diện của Công giáo. Nếu sự thực
đúng như vậy thì sự từ chối nầy là một hậu qủa để hơn 150 ngàn đồng hương tại
đây đổ hết lên đầu người Công giáo là thứ ích kỷ; khi lo Nước Trời thì kêu gọi
đồng hương không phân biệt tôn giáo giúp đỡ, nhưng khi lo Tổ quốc thì tìm cách
tránh né.
Tôi biết chắc không có một linh mục Việt Nam nào không thuộc nằm lòng,
mà còn là lời nguyện cầu gối đầu của cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận thường nhắc nhở
khi Ngài còn sinh thời:
Con phải yêu Tổ quốc gấp bội
Chúa dạy con, Hội Thánh bảo con
Cha mong dòng máu ái quốc
Sôi trào trong huyết quản con
(Trích trong “Con có một tổ quốc” của Cố Hồng Y Phanxicô
Xavie Nguyễn Văn Thuận)
Bây giờ Cố Hồng Y không còn nữa. Những lời Ngài nhắn gởi đã trở thành
“gió thoảng mây bay” đối với các linh mục Việt Nam ở Houston. Nếu qúy vị cảm
thấy mình chỉ biết lo việc Chúa, chỉ biết giáo dân trong họ đạo và Gíao phận đã
lo cho qúy vị đầy đủ cả hồn lẫn xác, qúy vị không cần tới tập thể hàng trăm
ngàn đồng hương ở đây, và muốn sống cô lập mình với tập thể nầy, tôi chỉ xin:
* Từ nầy về sau, qúy vị đừng lên báo, lên đài kêu gọi sự đóng góp, giúp
đỡ, của đồng hương bất luận tôn giáo để yểm trợ cho bất cứ chương trình nào
trong họ đạo của qúy vị.
* Qúy vị cũng nên hạ xuống lá cờ quốc gia, biểu tượng cho lý tưởng tự do
và dân chủ (nếu có trong khuôn viên họ đạo). Lá quốc kỳ nầy không
phải là tấm bích chương quảng cáo (poster) để dùng nó như là một
hình thức câu khách để kiếm lợi nhuận của họ đạo, như “treo đầu dê bán thịt
chó”, mà đúng ra nó nói lên rằng đây là một họ đạo của người Việt quốc gia tỵ
nạn Cộng sản.
* Qúy vị cũng nên rút lui ra khỏi tổ chức mang tiếng là “Liên tôn”,
trong lúc muốn tránh xa chức sắc các tôn giáo bạn trước đồng bào. Sự trốn tránh
sát vai cùng tôn giáo bạn, sát cánh cùng đồng bào tỵ nạn trong buổi lễ ngày 30
tháng Tư là một hành động được xem là ngạo mạn, khinh bĩ và coi thường cộng
đồng người Việt tại đây.
Tôi không viết những điều sai trái hay vu khống mạ lỵ như chuyện lăng
nhăng đàn bà con gái, tham ô tiền bạc giáo xứ, xách nhiễu tình dục trẻ con...
nhưng tôi viết lên một sự thực mà người đồng hương, cơ quan truyền thông ái
ngại vì nhiều lý do. Tôi không ngại những điều đó. Tôi chưa bao giờ ngửa tay
hay một lời nói để xin sự giúp đỡ của họ đạo, của linh mục chánh xứ. Nhưng tôi
không muốn người Công giáo và hàng giáo sĩ cứ tiếp tục bị rỉ tai, châm biếm và
truyền miệng những điều không đẹp cho tập thể Công giáo trong thành phố nầy.
Tôi không phải là người ù lì giả câm giả điếc để chờ những xấu xa tồi tệ nầy
rồi sẽ qua đi, nhưng nó cứ lặp đi lặp lại hàng năm. Có thể qúy linh mục sẽ cho
tôi là một tên cù bất cù bơ, không học, lạc đạo hoặc theo đạo vợ, chỉ biết công
kích hàng linh mục đáng tôn kính. Tôi không phải là hạng người đó. Tôi là một
người Công giáo mà cha ông đã qua nhiều thế hệ. Mẹ tôi là một nữ tu nhà trắng ở
Hà Nội; bà còn là cháu ngoại của vị thánh Mathêo Nguyễn Văn Phượng, một trong
117 vị đã được Giáo Hội phong lên hiển thánh. Cậu ruột tôi là một linh mục đã
dâng hiến gần 80 năm cuộc đời cho Giáo hội. Những họ đạo của ngài suốt 60 năm
toàn là nơi đèo heo hút gió, xa vắng ánh sáng thị thành. Dì ruột tôi là một nữ
tu thuộc dòng Phú Xuân, Kim Long Huế. Ba tôi là một giáo dân Việt Nam đầu tiên
được bệ kiến Đức Giáo Hoàng PIO XII vào năm thánh 1950 tại Roma. Ông đã dâng
hiến biết bao tiền bạc và nhà cửa cho dòng Thánh Tâm nằm bên bờ sông Nhật Lệ để
mở mang nước Chúa. Người làng Tam Tòa, các thầy cha dòng Thánh Tâm hiện đang có
mặt tại hải ngoại cũng như ở trong nước, các linh mục đã từng phục vụ cho giáo
xứ Tam Tòa trước năm 1954, trong đó có Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận... ai lại
không biết. Sau khi bỏ làng ra đi năm 1954, ba tôi vào lập nghiệp ở Đà Nẵng,
ông lại bị một số linh mục làm “điêu đứng” vì công ăn việc làm. Họ đã quên tình
xưa nghĩa cũ đến nỗi ba tôi phải thốt lên lời đau đớn: “tao chỉ còn tin
Chúa, hết tin nổi cha”. Nhưng có điều an ủi cho ông, trong thánh lễ đưa
tiển ông đến nơi an nghĩ cuối cùng, có mặt hầu hết linh mục và các thầy dòng
Thánh Tâm.
Tôi muốn dài dòng những việc nói trên không phải để khoe khoang, nhưng
để cho qúy vị thấy rằng tôi không phải là một người Công giáo mất gốc, không
cội nguồn, một loại giáo dân “vào đạo kiếm gạo mà ăn”. Tôi hiểu rằng sự thật sẽ
mất lòng, nhưng biết đâu nhờ sự mất lòng nầy để đưa qúy vị quay mặt lại với quê
hương đất nước, với những lầm than khốn khổ của dân chúng trong nước đang trông
chờ lời nguyện cầu của qúy vị. Tôi cũng hiểu rằng một ngày nào đó khi tôi ra
đi, sau quan tài của tôi có thể sẽ không có bóng dáng một vị linh mục Việt Nam
nào tiến vào thánh đường để dâng thánh lễ sau cùng cho tôi trên cõi tạm nầy.
Đây là hậu qủa của bài viết hôm nay, hậu qủa của tính bộc trực và ngay thẳng
Chúa đã cho tôi. Nhưng cũng không sao. Nếu không có linh mục Việt Nam thì có
linh mục Mỹ, Mỹ trắng, Mỹ đen hay Mễ, Tàu... Chúa sẽ không than phiền và trách
móc vị linh mục tiễn đưa tôi là người chủng tộc nào. Tôi không sợ uy quyền hay
hù dọa dưới thế gian, nhưng tội sợ sự phán xét công minh của Thiên Chúa và vui
mừng đón nhận lòng nhân hậu của Ngài khi phải đối mặt với Ngài. Tôi có một đức
tin mạnh mẽ, không phải biểu lộ sáng tối đọc kinh dài lê thê như một cái máy,
chỉ lo một chỗ tốt trên thiên đàng cho mình mà quên mất người khác, hay cúi rạp
mình để nghe rồi làm theo bất cứ chuyện gì vị chủ chăn nói. Chúa cho tôi trí óc
để xét đoán giữa sự thật và gian dối, một đức tin để tin Chúa chứ không phải
tin cha. Vì có trí óc và đức tin đó nên tôi mới dám nói lên những xúc cảm bài
viết nầy. Một đức tin yếu đuối, sợ hãi thì chẳng ai dám nói để chia xẻ với hàng
linh mục, nhất là sợ đụng đến vị chủ chăn, coi như mất chỗ trên Thiên đàng.
Tôi hy vọng các cơ quan truyền thông địa phương hãy đưa bài nầy lên cơ
quan truyền thông của qúy vị. Tôi chịu trách nhiệm về những gì tôi viết. Qúy vị
chỉ chuyển đạt mà thôi, và để cho qúy linh mục ở đây thấy rằng các ngài đang
tránh né một sự thật, và nó đã gây ra những hậu qúa rất đáng buồn, rất xấu cho
Cộng đồng Công giáo tại Houston. Họ rất muốn biết lý do tại sao qúy vị không có
mặt trong đêm 25 tháng tư vừa qua. Nếu tôi nói sai, xin qúy linh mục cứ thẳng
thắn giải thích và dạy bảo tôi trước quần chúng, trên cac cơ quan truyền thông,
kể cả sự trực diện đối mặt và cho tôi một lời xin lỗi. Nếu qúy linh mục làm sai
thì phải có một lời xin lỗi BTC, xin lỗi các vị đại diện tôn giáo bạn, và cộng
đồng người Việt quốc gia ở đây, trong đó có cả hàng chục ngàn người Công giáo.
Cả hai vị Giáo Hoàng Phaolô II và Benedicto XVI còn công khai xin lỗi trước thế
giới, vậy linh mục là gì đâu mà phải tự tôn, tự ái.
Tôi rất cảm ơn vị linh mục chủ tịch đã có mặt tại tượng đài để tri ân
các anh hùng tử sĩ, nhưng giáo dân và người đồng hương ở đây vẫn chưa bằng lòng
lẫn thắc mắc tại sao qúi vị không có mặt, đến cả một chức sắc đại diện cho Công
giáo cũng không có tại buổi lễ ở khuôn viên Hồng Kông 4 tối 25 tháng 4 vừa qua?
/.
Nguyễn Phi Thọ
Sau khi đọc bài này, tôi nghiệm ra, ngài LM ỏ xứ
tôi cũng không bao giờ nhắc đến quê hương VN trong cảnh giáo dân, đồng bào
lầm than, bị cướp nhà cửa, đất đai v.v..
Nhất là mỗi khi ngài về VN vài tuần và trở
qua! Trong bài giảng của Thánh Lễ, ngài luôn
khuyên làm lành, lánh dữ... nhưng chưa bao giờ ngài
mô tả những điều xấu xa, giả dối mà người giáo dân VN đang bị lũ vô thần bức
hại! Tôi thấy các LM DCCT Kỳ Đồng đã thường giảng và tố cáo nhà nước VC... ngay
trong nước. Còn LM của tôi chẳng hé một lời???
Đức GH Francis đã không khuyên người CG phải tham
gia vào Chính Trị đó sao? Ngài LM xứ tôi chọn con đường Thênh Thang trở vể VN,
tránh con đường gập ghềnh, khó khăn...! Con đường này có dẫn đến Sư Sáng mà
Chúa muốn không?
PS. Có LM từ
chối không chào cờ và mặc niệm Anh Linh Tử Sĩ VNCH để đường về nước VC
đươc trơn tru nữa đấy!
vt
No comments:
Post a Comment