cụ Nguyễn Thị Năm, tức Cát Hanh Long |
Khai mạc cuộc triển lãm Cải cách ruộng đất (CCRĐ), ông Nguyễn Văn Cường,
Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, cho biết cuộc triển lãm không nhằm
mục đích nói về những sai lầm hay oan khuất của những người bị thiệt
mạng, mà “…chỉ chọn những gì tích cực nhất mà cải cách mang lại”.
Vì không trung thực nên cuộc triển lãm nói trên đã nhận nhiều phê phán,
tạo một dư luận quan tâm đến biến cố CCRĐ và chỉ sau 4 ngày khai mạc
phải đóng cửa.
Nhiều người xem triển lãm ngạc nhiên vì rất ít hình ảnh trong đó có nhân
vật lịch sử Hồ chí Minh. Tối đến đài truyền hình cho chiếu đọan phim
ông Hồ phát biểu: "Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng…” Thế một người dấu diếm tội ác của mình thì là người thế nào?
Tạo Huyền Thọai Xóa Tội Ác.
Ông Long cho biết: “Những tư liệu được đưa ra cho công chúng xem vẫn không khác gì cách nhìn rụt rè về cải cách ruộng đất từ... 50 năm trước”.
Điền chủ Nguyễn Thị Năm là một người đã từng chứa chấp nuôi dưỡng hầu
hết các các cán bộ cao cấp cộng sản và đã đóng góp rất nhiều cho Việt
Minh.
Một tài liệu do Xuân Ba phổ biến vừa cho biết khi bà Năm bị đấu tố, ông Lê Đức Thọ lúc ấy đang ở miền Tây Nam Bộ được ông Hồ Viết Thắng từ Bắc gọi điện thọai chất vấn: “bà Nguyễn Thị Năm Cát Hanh Long có cho đồng chí cái gì khi đồng chí ở nhà bà ấy không?”.
Blogger J.B Nguyễn Hữu Vinh cũng phỏng vấn ông Lê Đình Phúc, là con của cụ Lê Đình Hàm, một địa chủ có công với cộng sản và tuyệt đối tin tưởng vào "bác Hồ". Cụ Hàm bị đấu tố và bắn chết vào ngày 09 tháng 7 năm 1953.
Ông Vinh đặt câu hỏi: “Vậy bác Hồ là người đứng đầu chính phủ lúc bấy giờ có chịu trách nhiệm gì về vấn đề này không?”
Ông Hàm trả lời: “Nói thế thì... hôm nay tôi không mang tài liệu của Hoàng Tùng nói về việc này...” Có vậy mới thấy ảnh hưởng sâu đậm của huyền thọai.
Ông Hoàng Tùng, nguyên Tổng biên tập báo Nhân Dân, là người đã vẽ ra huyền thọai: "Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào một người đàn bà, mà người ấy lại cũng giúp đỡ cho cách mạng, người Pháp nói không nên đánh vào đàn bà, dù chỉ là đánh bằng một cành hoa.”
“Sau cố vấn Trung Quốc là Lê Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói: Tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là không phải. Và họ cứ thế làm".
Ông Trần Huy Liệu tham dự buổi đấu tố bà Nguyễn Thị Năm, ước tính số người tới dự độ một vạn trở lại. Trong thời chiến một vạn người tập trung tại Đồng Bẩm, Thái Nguyên, cách Hà Nội vài chục cây số, đã đủ thấy tầm mức quan trọng của vụ đấu tố này.
Trong quyển Đèn Cù ông Trần Đỉnh cho biết cả Hồ Chí Minh lẫn Trường Chinh đều đã trực tiếp tham dự buổi đấu tố: “…Cụ Hồ bịt râu đến dự một buổi và Trường Chinh thì đeo kính râm suốt”.
Ông Trần Đĩnh cho biết đã được Trường Chinh phân công viết bài cho báo Nhân dân: ”Chi tiết thì khai thác Văn, người anh nuôi cấp dưỡng đi theo Trường Chinh, còn tội ác thì cứ theo tài liệu”.
Ông Trần Đĩnh cho biết: “Có lẽ để phối hợp với bài báo của tôi, C.B. (Bác Hồ) gửi đến bài “Địa chủ ác ghê”… rồi nhận xét: “…Hoàng Tùng vô tình hay cố ý quên bài báo bác gây căm thù cao độ này.”
Năm 2007, khi tìm hiểu về Hồ Chí Minh tôi đã phát hiện bài báo “Địa chủ ác ghê” của C.B., trên báo Nhân Dân 21 tháng 7 năm 1953 và đã cho phổ biến trên talawas “Vai Trò Hồ Chí Minh Trong Cải Cách Ruộng Đất”.
Sau này ông Nguyễn Minh Cần nhớ vào năm 1953 ông cũng đã được đọc bài "Địa chủ ác ghê" từ nội san Cải cách ruộng đất.
Bộ sách Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử tập 5 trang 418, cũng đề cập đến bài “Địa chủ phản động ác ghê”, ký bút danh Đ. X. đăng trên báo Cứu Quốc, số 2459 ngày 2/11/1953.
Về C.B. ông Bùi Tín cho biết: "lúc bấy giờ ở báo Nhân Dân, tất cả những bài nào đề chữ "C.B." là "Của Bác", là coi như thiêng liêng, là phải in ngay ở trang một, ở ngay dưới măng-séc, không được sai một dấu chấm, dấu phẩy nào".
Qua phỏng vấn Báo Tuổi Trẻ, cháu nội bà Năm ông Nguyễn Thủy Chung cho biết: “Từ một chủ hiệu buôn Cát Hanh Long lừng lẫy đất Hải Phòng, từng là người đóng góp tiêu biểu cho “Tuần lễ vàng” đầu tiên của đất cảng với hơn 100 lượng vàng, SAU NĂM 1945 cụ Năm tản cư theo cách mạng lên chiến khu, tiếp tục dựng nghiệp với hai đồn điền lớn mua lại của “một ông Tây què” tại Thái Nguyên.”
Chi tiết ông đưa ra rất khác với bản án Của Bác (C.B.) khép cho bà Năm:
“Mụ địa chủ Cát-hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã:
• Giết chết 14 nông dân.
• Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân, nay còn tàn tật.
• Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người - năm 1944, chúng đưa 37 gia đình về đồn điền phá rừng khai ruộng cho chúng. Chúng bắt làm nhiều và cho ăn đói. Ít tháng sau, vì cực khổ quá, 32 gia đình đã chết hết, không còn một người.
• Chúng đã hãm chết hơn 30 nông dân - Năm 1945, chúng đưa 65 nông dân bị nạn đói ở Thái Bình về làm đồn điền. Cũng vì chúng cho ăn đói bắt làm nhiều. Ít hôm sau, hơn 30 người đã chết ở xóm Chùa Hang.
• Năm 1944-45, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi. Chúng bắt các em ở dưới hầm, cho ăn đói mặc rách, bắt làm quá sức lại đánh đập không ngớt. Chỉ mấy tháng, 15 em đã bỏ mạng.
• Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân, nay còn tàn tật.
• Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người - năm 1944, chúng đưa 37 gia đình về đồn điền phá rừng khai ruộng cho chúng. Chúng bắt làm nhiều và cho ăn đói. Ít tháng sau, vì cực khổ quá, 32 gia đình đã chết hết, không còn một người.
• Chúng đã hãm chết hơn 30 nông dân - Năm 1945, chúng đưa 65 nông dân bị nạn đói ở Thái Bình về làm đồn điền. Cũng vì chúng cho ăn đói bắt làm nhiều. Ít hôm sau, hơn 30 người đã chết ở xóm Chùa Hang.
• Năm 1944-45, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi. Chúng bắt các em ở dưới hầm, cho ăn đói mặc rách, bắt làm quá sức lại đánh đập không ngớt. Chỉ mấy tháng, 15 em đã bỏ mạng.
Thế là ba mẹ con địa chủ Cát-hanh-Long, đã trực tiếp, gián tiếp giết ngót 260 đồng bào!”
Ông Trần Huy Liệu giải thích “tội ác” bà Năm như sau: “Sự thực thì hồi ấy dân chết đói nhiều quá, bọn thống trị Pháp, Nhật muốn che lấp tội ác của chúng, bắt các chủ đồn điền phải hàng ngày xuất ra một số gạo phát chẩn cho dân. Thị Năm đã bớt và khai man số gạo này, nghĩa là ăn cắp số gạo mà dân đói đáng được hưởng để chết đói thêm.”
Tiêu Lang báo Cứu Quốc người đã chứng kiến vụ xử bắn bà Năm, cho ông Trần Đĩnh biết vì áo quan cho bà Năm quá nhỏ nên:‘Du kích mấy người bèn đặt bà ta nằm trên miệng cỗ áo rồi nhảy lên vừa giẫm vừa hô: “Chết còn ngoan cố này, ngoan cố nổi với các ông nông dân không này?”. Nghe xương kêu răng rắc mà tớ không dám chạy…. cuối cùng bà ta cũng lọt vào nằm vẹo vọ….” !’
Nhằm phóng tay phát động CCRĐ, buổi đấu tố bà Năm đã đựơc đưa vào sách giáo khoa môn Quốc Văn, Bài tập đọc Số 8 “Ấn Cổ Nó Xuống”, trong mục “Vạch mặt Địa Chủ Cường Hào Gian Ác”, Bộ Giáo Dục xuất bản năm 1953, để dạy cho học sinh.
Trên là cách đối xử của phía cộng sản, còn đối với người dân ông Trần Đĩnh cho biết: “Nhưng dân Đồng Bẩm thì không quên. Ở xã này có một quả đồi được dân tự động đặt cho nó tên một nạn nhân lớn: đồi Nguyễn Thị Năm.”
Ngòai huyền thọai Của Bác về điền chủ Nguyễn thị Năm, còn một số các huyền thọai khác cũng xin vắn tắc nêu ra.
Nhận “Sai Lầm” và “Sửa Sai”
Ông Nguyễn Minh Cần cho biết việc “sửa sai” thi hành kỷ luật các lãnh đạo CCRĐ như sau:Thứ nhất, ông Trường Chinh mất ghế Tổng bí thư, nhưng lại vẫn là uỷ viên Bộ Chính Trị, chuyển sang ngồi ghế Chủ tịch Quốc hội, phụ trách công tác tư tưởng, rồi cùng Tố Hữu bày ra vụ Nhân Văn – Giai Phẩm đàn áp quyết liệt tầng lớp trí thức văn nghệ sĩ;
Thứ hai, ông Hoàng Quốc Việt, người nổi tiếng ác nhất, bị đưa ra khỏi BCT trao chức vụ Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao là chức vụ nắm quyền sinh quyền sát con người;
Thứ ba, ông Lê Văn Lương chịu trách nhiệm về Chỉnh đốn tổ chức đã làm cho nhiều cán bộ đảng viên ở xã bị bắn giết, bị tù đày, phải ra khỏi BCT, nhưng được đưa về làm bí thư Thành uỷ Hà Nội;
Thứ tư, ông Hồ Viết Thắng bị đưa ra khỏi TW Đảng thì lại cho làm uỷ viên thường trực Uỷ ban Kế hoạch nhà nước.
Còn ông Hồ vẫn tiếp tục giữ chức chủ tịch và vẫn là uỷ viên Bộ Chính Trị.
Về việc Hồ chí Minh khóc, ông Nguyễn Minh Cần cho biết như sau:
“Ngày 29-10-1956 – mít tinh lớn tại Nhà Hát Nhân dân Hà Nội, uỷ viên BCT đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh và TW ĐLĐVN chính thức công nhận những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ.”
“Nhân đây, xin nói rõ: một vài người viết không đúng là cuộc mít tinh tổ chức tại sân vận động Hàng Đẫy và ông Hồ đã đến dự và khóc trước dân chúng. Hà Nội được giao cho việc tổ chức mít tinh nên tôi biết rõ. Hồi đó, chúng tôi được giải thích: ‘Bác đến không tiện’, nhưng chúng tôi đều hiểu là ông Hồ muốn đưa ông Giáp ra ‘chịu trận’ thay mình, nên không hề có việc ông Hồ khóc trước dân chúng.”
Ông Cần cũng cho biết: “…ảnh ông Hồ khóc thì tôi không biết ông khóc ở đâu? Hoặc người ta đóng lại sau này mà tôi không rõ. Cũng như chuyện ông Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 mà sau này ta thấy phổ biến một bản ghi âm và ghi hình thì tôi biết rõ đó là ông đóng lại cho người ta quay phim và ghi âm (hồi đó có người nói lại với tôi), chứ hồi năm 1945 làm gì có chuyện vừa quay phim vừa ghi âm như thế được.”
Để ý phim và hình thì khi ông Hồ khóc, phía dưới người tham dự thay vì xúc động theo ông, thật kỳ lạ họ lại vỗ tay như khán giả xem kịch vỗ tay tán thưởng!!!
Thắng Lợi Kinh Tế Miền Bắc Sau CCRĐ
Nếu chỉ dựa trên báo cáo thành tích hay tuyên truyền thắng lợi CCRĐ mọi
người rất dễ bị lạc vào huyền thọai: sau CCRĐ nông dân miền Bắc đã có
được đời sống tốt hơn xưa.May mắn thay huyền thọai này đã bị chính ông Hồ phá vỡ. Biên bản Hội Nghị Bộ Chính Trị, Hồ Chí Minh Biên Niên Tiểu Sử, tập 8, trang 272, ông Hồ phát biểu:
“Từ ngày hòa bình lập lại năm nào cũng thấy có thuận lợi, có khó khăn và năm nào cũng không đạt kế hoạch. Tình hình mỗi ngày một căng thẳng. Ta phải tính cách nào, nếu cần có thể phải giảm bớt một phần xây dựng để giải quyết vấn đề ăn và mặc cho quần chúng được tốt hơn nữa, đừng để cho tình hình đời sống căng thẳng quá.”
Các tầng lớp địa chủ, trí thức, thương gia miền Bắc nếu không bị công sản tiêu diệt thì cũng đã di cư vào Nam. Thiếu các tầng lớp có khả năng làm ra của cải vật chất và điều hành quản lý kinh tế là lý do đầu và quan trọng nhất miền Bắc rơi vào lạc hậu và nghèo đói.
Sai Lầm Hay Tội Ác?
Đã 60 năm con số người bị giết và nạn nhân CCRĐ vẫn chưa được chính thức công bố.Gần đây ông Đặng Phong, chủ biên quyển Lịch sử Kinh tế Việt Nam 1945-2000, đưa ra số thống kê 172.008 người bị quy là địa chủ hay phú nông, trong đó có 26.453 người là địa chủ cường hào ác bá.
Những người bị quy là địa chủ cường hào ác bá đều bị xử tử. Như vậy ít nhất đã có 26.453 người bị xử tử.
Ngòai số người tự tử chết và chết trong tù, các nhân chứng cho biết có nhiều cách xử tử khác nhau: xử bắn, xử chặt đầu, xử chấn nước đến chết, xử treo lên ngọn tre và bị đâm cho đến chết, xử chôn phần mình để lộ phần đầu đội cải cách dùng cày, cày cổ nạn nhân và nhiều lối xử “đầy sáng tạo” khác…
Ông Nguyễn Minh Cần cho biết tỷ lệ 5% dân số là địa chủ, mà Hồ Chủ Tịch đưa ra không có dựa trên một cơ sở điều tra nào cả.
Ông Cần còn cho biết ông Hồ chưa hề ký một lệnh ân xá nào. Chỉ từ sau Đại hội lần thứ 20 đảng Cộng sản Liên Xô và sau hội nghị cán bộ cao cấp và trung cấp (từ 28.04 đến 03.05.1956), do phản ứng rất mạnh của cán bộ mới có lệnh tạm thời hõan thi hành các án tử hình.
Cũng theo ông Đặng Phong, CCRĐ đã được thực hiện ở 3.563 xã, số địa chủ đã “vựơt chỉ tiêu” lên đến 5,68% dân số miền Bắc 13.574.000 người (năm 1955). Như thế số nạn nhân thực sự lên đến trên nửa triệu.
Khi đã bị quy là thành phần địa chủ họ và thân nhân bị cô lập, bị phân biệt đối xử và bị cướp hết tài sản. Nhiều người chết vì đói, vì bị ức hiếp, bị hãm hiếp. Cho đến ngày nay con cháu họ vẫn bị kỳ thị.
Những người không thuộc thành phần địa chủ, nhưng không chấp nhận đấu tố CCRĐ đều có thể trở thành nạn nhân của cuộc đấu tranh tiêu diệt giai cấp địa chủ này.
Cùng lúc đảng Cộng sản đã cho tiến hành một cuộc chỉnh quân chỉnh huấn, theo báo cáo của Bộ Chính trị đến tháng 10 năm 1956 thì chỉ riêng tổng số đảng viên bị "xử trí" đã lên tới 84.000 người. Số ngươi bị giết cũng có thể lên đến hằng chục ngàn người.
Theo số liệu ông Đặng Phong đưa ra có đến 71,66% địa chủ là bị quy sai thành phần.
Quy thành phần dựa trên quan điểm đấu tranh giai cấp và sách lược chia để trị hiện vẫn còn được sử dụng. Trên thực tế, các nạn nhân CCRĐ đều không có một tấc sắt trong tay, không chống đối và đều là những người đã chấp nhận sinh sống trong khu vực Việt Minh.
Những người không chấp nhận Việt Minh đều đã bị giết hoặc đã bỏ về thành. Bởi thế hằng nửa triệu nạn nhân, hằng trăm ngàn người bị giết là một cuộc diệt chủng khủng khiếp chưa từng xảy ra trong lịch sử Việt Nam.
Viết Lại Sử Việt
Rõ ràng vụ đấu tố bà Nguyễn Thị Năm nhằm phát động CCRĐ là trọng tâm một
biến cố lịch sử gây chết chóc tang thương cho tòan miền Bắc mà dư hưởng
vẫn còn đến ngày nay. Điền chủ Nguyễn Thị Năm đã trở thành một nhân vật
lịch sử.Viết sử cận đại mà bỏ qua cuộc CCRĐ, thì không khác gì viết về CCRĐ mà không hiểu rõ vụ đấu tố bà Nguyễn Thị Năm hay viết về tiểu sử Hồ Chí Minh mà thiếu vai trò Của Bác (C.B.) trong cuộc CCRĐ.
Các tài liệu về vụ đấu tố bà Nguyễn Thị Năm vừa được phổ biến giúp hóa giải một số huyền thọai, làm sáng tỏ một phần quá khứ, giúp viết lại trang sử bi thương dân tộc, giúp các thế hệ hậu sinh xây dựng lại đất nước trong tình người và tránh xa những tội ác mà người đi trước như Hồ Chí Minh đã mắc phải.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
29/9/2014
Tài Liệu Tham Khảo
• BBC, 2014, Đèn Cù 'giải ảo Hồ Chí Minh'
• C.B., 1955, Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất, Báo Nhân Dân.
• Đặng Phong, 2004, Lịch sử Kinh tế Việt Nam 1945-2000, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội, Tập 2.
• Hà Hương và Ngọc Hà, 2014, Triển lãm Cải cách ruộng đất: Cần sòng phẳng với lịch sử, Tuổi Trẻ.
• Hoàng Tùng, Những kỷ niệm về Bác Hồ.
• Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, talawas
• Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, 1995, Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
• JB Nguyễn Hữu Vinh,2014, Triển lãm CCRĐ: Khoét thêm vết thương để bao che tội ác?
• Trần Đĩnh, 2014, Đèn Cù, Nhà Xuất Bản Người Việt.
• Trần Huy Liệu, 2010, Trích Nhật ký Cải cách Ruộng đất, Về chuyện đấu tố bà Nguyễn Thị Năm - talawas.
• Trinh Nguyễn, 2014, Lần đầu triển lãm về cải cách ruộng đất, Báo Thanh Niên Online.
• Nguyễn Minh Cần, Xin đừng quên tội ác! ... Nửa thế kỷ trước.
• Nguyễn Quang Duy, 2010, Huyền thoại và sự thực: Hồ Chí Minh trong Cải cách Ruộng đất,
• Nguyễn Quang Duy, 2007, Vai trò của Hồ Chí Minh trong Cải cách ruộng đất, talawas.
• Xuân Ba, 2014 , Chuyện về người phụ nữ đầu tiên bị bắn oan, Nguồn: Quê Choa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bà Nguyễn Thị Năm
• C.B., 1955, Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất, Báo Nhân Dân.
• Đặng Phong, 2004, Lịch sử Kinh tế Việt Nam 1945-2000, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội, Tập 2.
• Hà Hương và Ngọc Hà, 2014, Triển lãm Cải cách ruộng đất: Cần sòng phẳng với lịch sử, Tuổi Trẻ.
• Hoàng Tùng, Những kỷ niệm về Bác Hồ.
• Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, talawas
• Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, 1995, Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
• JB Nguyễn Hữu Vinh,2014, Triển lãm CCRĐ: Khoét thêm vết thương để bao che tội ác?
• Trần Đĩnh, 2014, Đèn Cù, Nhà Xuất Bản Người Việt.
• Trần Huy Liệu, 2010, Trích Nhật ký Cải cách Ruộng đất, Về chuyện đấu tố bà Nguyễn Thị Năm - talawas.
• Trinh Nguyễn, 2014, Lần đầu triển lãm về cải cách ruộng đất, Báo Thanh Niên Online.
• Nguyễn Minh Cần, Xin đừng quên tội ác! ... Nửa thế kỷ trước.
• Nguyễn Quang Duy, 2010, Huyền thoại và sự thực: Hồ Chí Minh trong Cải cách Ruộng đất,
• Nguyễn Quang Duy, 2007, Vai trò của Hồ Chí Minh trong Cải cách ruộng đất, talawas.
• Xuân Ba, 2014 , Chuyện về người phụ nữ đầu tiên bị bắn oan, Nguồn: Quê Choa.
Tôi đang tìm mua cuốn “Đèn cù” của Trần Đĩnh, nhưng đọc qua vài bài điểm
sách tôi thấy có nhiều thông tin rất quan trọng mà tôi muốn biết bấy
lâu nay. Đó là vai trò của ông Hồ Chí Minh trong cuộc Cải cách ruộng đất
(CCRĐ). Đã từ lâu tôi vẫn nghĩ ông Hồ không có can dự vào cuộc CCRD hay
không muốn giết bà Nguyễn Thị Năm. Ông từng đứng ra “xin lỗi” về thảm
hoạ CCRĐ. Nhưng cuốn Đèn cù làm tôi bắt đầu suy nghĩ lại …
Bà Nguyễn Thị Năm (Cát Hanh Long) như chúng ta biết là một “đại gia”
(nói theo ngôn ngữ ngày nay), nhưng cũng là một ân nhân của ông Hồ và
những người lãnh đạo cao cấp trong đảng. Bà đóng góp 700 lạng vàng cho
Việt Minh. Con trai của bà theo Việt Minh và làm sĩ quan trong quân đội.
Các lãnh đạo Việt Minh thời đó như Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt đều
tá túc hay được bà giúp đỡ. Nói chung, bà là người tư sản và là người
tốt bụng.
Vậy mà đùng một cái, CCRĐ xảy ra và bà là đối tượng đầu tiên bị đem ra
xét xử và hành quyết. Trong hồi kí “Mặt thật”, ông Bùi Tín viết rằng mấy
người trong CCRĐ nghĩ bà Nguyễn Thị Năm là người giả dối, việc giúp
cách mạng của bà là để “chui sâu, leo cao vào hàng ngũ cách mạng để phá
hoại.” Ông Bùi Tín cũng cho biết “Ông Hoàng Quốc Việt kể lại rằng hồi ấy
ông chạy về Hà Nội, báo cáo việc hệ trọng này với ông Hồ Chí Minh. Ông
Hồ chăm chú nghe rồi phát biểu: ‘Không ổn! Không thể mở đầu chiến dịch
bằng cách nổ súng vào một phụ nữ, và lại là một người từng nuôi cán bộ
cộng sản và mẹ một chính uỷ trung đoàn Quân đội Nhân dân đang tại chức.’
Ông hẹn sẽ can thiệp, sẽ nói với Trường Chinh về chuyện hệ trọng và cấp
bách này”.
Nhưng Nhà văn Trần Đĩnh kể trong “Đèn cù” rằng trước đó, chính ông Hồ
Chí Minh qua bút danh “C.B” viết bài “Địa chủ ác ghê” trên báo Nhân Dân
tố cáo bà Nguyễn Thị Năm từng giết chết 14 nông dân, làm chết 32 gia
đình, phản cách mạnh, v.v. (1) Bài viết sặc mùi đấu tố cũng là bản án
dành cho bà Nguyễn Thị Năm: tử hình.
Trần Đĩnh kể rằng hôm đấu tố bà Nguyễn Thị Năm, “Cụ Hồ bịt râu đến dự
một buổi và Trường Chinh thì đeo kính râm suốt”. Có đoạn mô tả vì thi
thể của bà Nguyễn Thị Năm hơi lớn so với cái hòm thô sơ và rẻ tiền, nên
các “Du kích mấy người bèn đặt bà ta nằm trên miệng cỗ áo rồi nhảy lên
vừa giẫm vừa hô…” Sau đó người ta đem thi hài của bà đi đâu chẳng có
thân nhân nào biết (nghe nói sau này năm 1993 thân nhân tìm được mộ qua
một nhà ngoại cảm). Chẳng biết lúc đó ông Trường Chinh nghĩ gì, tại sao
ông không ra can môt lời cho người ân nhân của ông? Đọc mà hình dung
cảnh đó sao tôi thấy rợn người vì sự dã man.
Tiết lộ của Nhà văn Trần Đĩnh là một cái “fact” quan trọng cần phải được
kiểm chứng (vì trước đó ông Bùi Tín cho rằng ông Hồ không hay biết vụ
đấu tố bà Nguyễn Thị Năm). Nhưng bằng chứng từ Nhà văn Trần Đĩnh, và
nhất là bài viết kí tên “CB”, nghiêng về giả thuyết ông Hồ Chí Minh
không chỉ biết mà còn chứng kiến cảnh đấu tố bà Nguyễn Thị Năm. Cho đến
nay, chẳng thấy ai trong chính quyền đứng ra xin lỗi gia đình bà Nguyễn
Thị Năm.
GS Nguyễn Văn Tuấn02-09-2014
—–
Địa chủ ác ghê - CB
Thánh hiền dạy rằng: “Vi phú bất nhân”. Ai cũng biết rằng địa chủ thì
ác: như bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khoá – thế
thôi. Nào ngờ có bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí
dụ:
Mụ địa chủ Cát-hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã:
– Giết chết 14 nông dân.
- Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân, nay còn tàn tật.
- Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người – năm 1944, chúng đưa 37 gia
đình về đồn điền phá rừng khai ruộng cho chúng. Chúng bắt làm nhiều và
cho ăn đói. Ít tháng sau, vì cực khổ quá, 32 gia đình đã chết hết, không
còn một người.
- Chúng đã hãm chết hơn 30 nông dân – Năm 1945, chúng đưa 65 nông dân bị
nạn đói ở Thái Bình về làm đồn điền. Cũng vì chúng cho ăn đói bắt làm
nhiều. Ít hôm sau, hơn 30 người đã chết ở xóm Chùa Hang.
- Năm 1944-45, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi. Chúng bắt các em ở
dưới hầm, cho ăn đói mặc rách, bắt làm quá sức lại đánh đập không ngớt.
Chỉ mấy tháng, 15 em đã bỏ mạng.
Thế là ba mẹ con địa chủ Cát-hanh-Long, đã trực tiếp, gián tiếp giết ngót 260 đồng bào !
Còn những cảnh chúng tra tấn nông dân thiếu tô thiếu nợ, thì tàn nhẫn không kém gì thực dân Pháp. Thí dụ:
- Trời rét, chúng bắt nông dân cởi trần, rồi dội nước lạnh vào người.
Hoặc bắt đội thùng nước lạnh có lỗ thủng, nước rỏ từng giọt vào đầu, vào
vai, đau buốt tận óc tận ruột.
- Chúng trói chặt nông dân, treo lên xà nhà, kéo lên kéo xuống.
- Chúng đóng gióng trâu vào mồm nông dân, làm cho gẫy răng hộc máu. Bơm nước vào bụng, rồi giẫm lên bụng cho hộc nước ra.
- Chúng đổ nước cà, nước mắm vào mũi nông dân, làm cho nôn sặc lên.
- Chúng lấy nến đốt vào mình nông dân, làm cho cháy da bỏng thịt.
- Đó là chưa kể tội phản cách mạng của chúng. Trước kia mẹ con chúng đã
thông đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ cán bộ. Sau Cách mạng tháng Tám,
chúng đã thông đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại kháng
chiến.
Trong cuộc phát động quần chúng, đồng bào địa phương đã đưa đủ chứng cớ
rõ ràng ra tố cáo. Mẹ con Cát-hanh-Long không thể chối cãi, đã thú nhận
thật cả những tội ác hại nước hại dân. Thật là:
Viết không hết tội, dù chẻ hết tre rừng,
Rửa không sạch ác, dù tát cạn nước bể!
(21-7-1953)
C.B.
'Đèn Cù là tiếng kêu đau'
của tôi
Thứ hai, 1 tháng 9, 2014
Những ngày gần đây, dư luận đang chú
ý một cuốn sách, được in tại Mỹ, của tác giả Trần Đĩnh, viết về chính trị nội
bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cuốn sách Bấm Đèn Cù, được công bố dịp này ở hải ngoại
là một 'lời kêu đau' của người viết, theo nhà văn Trần Đĩnh, tác giả cuốn tự
truyện vốn đề cập nhiều chi tiết được cho là 'thâm cung bí sử' về Đảng Cộng sản
Việt Nam và các 'góc khuất' trong đời tư của cố Chủ tịch Việt Nam, ông Hồ Chí
Minh.
Trao đổi với BBC hôm 01/9/2014 từ
Việt Nam, ông Trần Đĩnh giải thích lý do và dự định viết và công bố cuốn sách,
mà theo ông đã được khởi thảo từ năm 1991 để hưởng ứng lời kêu gọi của cố Tổng
Bí thư ông Nguyễn Văn Linh về 'phá tan sự im lặng đáng sợ'.
Tác giả cũng nói ông quyết định hoàn
tất cuốn sách để gửi ra hải ngoại công bố, vào thời điểm Trung Quốc hạ đặt giàn
khoan Hải Dương 981 ở Biển Đông vào đầu tháng 5 năm nay để gửi một thông điệp
cho Đảng.
Sự thực
Ông Trần Đĩnh cũng nói do nội dung
của cuốn sách có nhiều thông tin được cho là nhạy cảm, mà sách của ông không
thể công bố trong nước, và ông buộc phải gửi ra hải ngoại, sau lần chỉnh sửa,
bổ sung cuối cùng vào đầu tháng 5/2014.
Ông Trần Đĩnh, sinh năm 1930, ở Hải
Hưng, nguyên nhà báo của các cơ quan báo chí của Đảng như Sự Thật, báo Nhân Dân.
Ông là cây bút chuyên được đặt hàng
hoặc mời viết tiểu sử, tự truyện, hồi ký cho các nhân vật cao cấp trong Đảng,
trong đó có ông Hồ Chí Minh, ông Trường Chinh, cố Tổng bí thư Đảng.
Nói với BBC, ông khẳng định những gì
ông viết là sự thật từ chính những gì ông chứng kiến, hoặc được các nhân chứng
lịch sử chia sẻ.
Đọc Đèn Cù của Trần Đĩnh
Trần An Lộc (Danlambao) - Mar 31, 2014 - Vụ án bà Nguyễn Thị Năm tức bà Cát Hanh Long là người đầu tiên bị xử bắn để phát động phong trào "cải cách ruộng đất" năm 1953 bởi đảng Cộng sản Việt Nam tại nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa lại đang như những giòng máu chảy dài trên báo mạng trong nước.
Tô Hoài (trái) và Trần Đĩnh (hình trang 590, sách “Đèn Cù.”)
Trần Đĩnh không phải là một tác giả quen tên đối với người
đọc sách Miền Nam Việt Nam, và cũng khá lạ với độc giả hải ngoại.
Nhưng ông là người đã từng cầm bút viết lên những trang sách
nhiều triệu người đọc, ở Miền Bắc.
Trần Đĩnh là người chấp bút Tiểu sử chính thức đầu tiên của
Hồ Chí Minh, năm 1960; và chấp bút các cuốn tự truyện, hồi ký cho Phạm Hùng, Lê
Văn Lương… trong đó, nổi tiếng với dân Miền Bắc là cuốn “Bất Khuất” (hồi ký tù
Côn Đảo của Nguyễn Đức Thuận, 1967). Trần Đĩnh cũng là dịch giả nhiều tác phẩm
văn học…
Tại sao dân Miền Nam và hải ngoại ít biết tới Trần Đĩnh? Câu
trả lời đơn giản: ông bị bắt, bị cải tạo lao động (trong một xưởng in), bị quản
chế nhiều năm vì liên hệ trong “vụ án xét lại” — một vụ án được nhiều người gọi
đơn giản là vụ án Hoàng Minh Chính, hay vụ án “tay sai Liên Sô”.
Tại sao ông dính vào “xét lai”?
Nơi trang 561 của “Đèn Cù,” tác giả Trần Đĩnh giải thích:
“Nhiều người không biết gốc tội chúng tôi là muốn đối thoại
với bà con trong Nam chứ không xin máu họ. Cộng sản tồn tại nhờ chuyên chính
bạo lực nhưng chúng tôi đòi giải vũ trang đảng, đòi đảng phải chụp bạo lực đi
hay từ bỏ vai trò “bà đỡ của cách mạng” hay thôi con đường “chính quyền ra từ
nòng súng.” Thực chất đòi dân chủ cho muôn người… chúng tôi đã xung phong làm
nghịch tử. Không thích đổ máu người nữa. Thích quyền người.”
Cuốn tự truyện của Trần Đĩnh dày 600 trang, đầy những chi
tiết về bản thân ông, một chàng trai theo lý tưởng chống Pháp, tham dự tổng
khởi nghĩa do Cộng sản lãnh đạo ngày 19-8-1945 khi mới 15 tuổi, và năm 19 tuổi
được đưa vào An Toàn Khu để làm báo Sự Thật bên cạnh các lãnh tụ như Hồ Chí
Minh, Trường Chinh…
Tuy là tự truyện, nhưng trước hết đây là một lối viết rất
văn học, chú ý tới nhiều chi tiết dễ dàng làm độc giả hình dung ra người và
cảnh một cách sinh động.
Thí dụ, nơi trang 84, Trần Đĩnh kể rằng ông Hồ và Trường
Chinh tham dự buổi đấu tố cụ bà Nguyễn Thị Năm (Cát Hanh Long): “Cụ Hồ bịt râu
đến dự một buổi và Trường Chinh thì đeo kính râm suốt.”
Cũng như chi tiết áo quan rẻ tiền, không chứa nổi xác bà cụ
Nguyễn Thị Năm, nên “Du kích mấy người bèn đặt bà ta nằm trên miệng cỗ áo rồi
nhảy lên vừa giẫm vừa hô…” (trang 86)
Bịt râu và đeo kính râm suốt… Nhảy lên xác cụ bà, vừa giẫm
vừa hô…
Đó là những chi tiết văn học, làm đôc giả thấy cảnh hiện ra
rõ ràng.
Trần Đĩnh vào nghề làm báo và dược Trường Chinh (Tổng Bí Thư
Đảng và là Chủ nhiệm bao Sự Thật) hướng dẫn.
Trần Đĩnh cũng kể về “mối tình” của ông Hồ với cô Phương
Mai… Cách kể chuyện của Trần Đĩnh rất văn học, với những chữ như: tự nhiên,
mang ba lô, chăn chiếu, tớ được xua về sớm, về muộn, máy Cụ…
Trích trang 30:
“Một dạo Phan Kế An ngày ngày đến vẽ Cụ Hồ. Một chiều về sớm
hơn, An nói: À, cái P.M. (Phương Mai) tự nhiên mang ba lô, chăn chiếu đến chỗ
Ông Cụ, tớ được xua về sớm. Vài tháng sau, An lại về muộn. Hỏi vì sao thì An
nói không thấy P.M. (Phương Mai) đến nữa. Chắc máy cụ yếu, giải đáp thuần túy
sinh học. Không tính đến sở thích, gu của cụ”. (hết trích)
Đó là văn học, kiệm lời nhưng đưa sâu vào trí nhớ độc giả.
Phương Mai là ai?
Không rõ có phải Phương Mai đươc Nguyễn Minh Cần (Cựu Phó
Chủ Tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội) kể trong bài “Vài mẩu chuyện về
cuộc đời HCM”, trích:
“…Xin nói rõ chuyện như thế này: hồi đó, có ý kiến là ông Hồ
cần có vợ để việc “giải quyết sinh lý” được điều hòa thì tốt cho sức khỏe. Và
sau Hiệp định Genève 1954, người ta chọn một người “kháu” nhất trong số nữ cán
bộ trẻ, đó là chị Nguyễn Thị Phương Mai, tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Thanh Hóa và đưa
chị từ Khu Bốn ra Hà Nội để tiến cử lên ông Hồ. Và như ta đã biết qua cuộc “loạn
đàm,” chị đặt vấn đề phải có hôn nhân đàng hoàng. Thế là… việc không thành. Rồi
chị được bổ nhiệm làm thứ trưởng Bộ thương binh và ở luôn tại Hà Nội.”(hết
trích)
Chị Phương Mai đặt vấn đề? Hay là ông Hồ thấy dan díu đã đủ
rồi? Dĩ nhiên, không ai có câu trả lời chỗ này…
Trần Đĩnh cũng kể về cô X. người đứng bên cạnh ông Hồ và
đươc ông Hồ xem là “con nuôi.” Cô X. Những cảm xúc của Trần Đĩnh với cô X. đươc
kể nơi trang 97-98 và:
“Tôi quả đang vút lên chín tầng mây… Mới hôm qua ở suối lên,
dốc trơn, tôi giơ tay ra đỡ X. Bàn tay con gái tôi lần đầu nắm lâu trong đời.
Và cảm giác rạo rực theo tôi mãi…”
Cô X. lúng túng, rơi chiếc thìa trên cỏ… Cô X. cũng là người
làm Trần Đĩnh mơ mộng, có lúc ký tên với bút hiệu Hoàng X. là vì cô.
Nơi trang 375, Trần Đĩnh kể tiếp:
“…rồi cô cho tôi cái thìa, món kỷ niệm tôi đặt lên trên bụi
lạc tiên đầy bụi ở giữa Na Sầm và Đồng Đăng, chờ vượt sang Trung Quốc. Tóm lại
tình trong như đã, mặt ngoài còn e…”
Nhưng rồi Trần Đĩnh tiêt lộ, cô X. chính là cô Xuân, chết ở
Hà Nội vì bị ô tô đè… (trang 183) Nhiều năm sau, người ta mới biết cô Xuân cũng
là một phần giường chiếu của ông Hồ.
Đọc “Đèn Cù” của Trần Đĩnh, chúng ta nhìn rõ hơn về cach
công an đàn áp những người “xét lại,” và thấy một sự thật nữa: mỗi lần chuyển
biến chính sách đối ngoại, sẽ có một thành phần trong Đảng bị thanh trừng.
Bản “Đèn Cù” tôi đọc tuy có vài trang in nhầm, nhưng 600
trang sách đầy những chi tiết lịch sử đã lôi tôi vào một thế giới hiếm người
Miền Nam biết tới: từ nơi An Toàn Khu, Trần Đĩnh làm báo với Trường Chinh, rồi
đi Bắc Kinh nhiều năm để học, những cảm xúc của anh với cô diễn viên múa Hồng
Linh có cha bị giết oan vì nghi là Tàu Tưởng (phe Tưởng Giới Thạch), rồi về
nước làm báo tiếp, bị thanh trừng, đẩy vào một góc xưởng in để “lao động cải
tạo” nhưng tất cả các thợ in đều thương cảm…
Nhiều chi tiết lịch sử đươc ghi lại mà chính sử sẽ bỏ qua,
trong đó có chuyện Lê Duẩn “trình bày về đề cương về vấn đề con người” riêng
cho triết gia Trần Đức Thảo nghe (trang 435-441) và khi xin Giaó sư Thảo có ý
kiến… thì:
“Ngơ ngác một lát, Thảo nói: – Tôi không hiểu gì cả.”
Thế là, Lê Duẩn vòng ra sau GS Thảo, vòng tay ôm GS Thảo
nhấc lên, giộng xuống đất mấy cái cho hả giận… rồi bỏ vào trong nhà.
Sau đó, GS Trần Đức Thảo kể lại với Trần Đĩnh, Duẩn chẳng
hiểu gì về chủ nghĩa Mác… Rồi Trần Đức Thảo thì thầm vào tai Trần Đĩnh: “Làm
sao Duẩn lại Mác-xít được?”
Có một chi tiết cũng đã bị chính sử Hà Nội xóa đi: nhà báo
Bùi Tín vào Dinh Độc Lập ngày 30-4-1975. Bây giờ, Hà Nội không muốn nhắc tới
tên của nhà báo Bùi Tín, người đã vào Dinh Độc Lập và đã tò mò mở cửa một tủ
lạnh nơi này…
Đọc cuốn Đèn Cù, sẽ có một số người không hài lòng, vì một
số nghi vấn lịch sử không đươc Trần Đĩnh chú ý nhiều.
Người đọc có cảm giác không nghi vấn gì về tập thơ trong tù
ký tên ông Hô mà một số học giả nói là của một bạn tù khác, và độc giả cũng
không nghi vấn gì về một ông Hồ sau này được nói là gián điệp Hoa Nam giả mạo
để càì vào VN.
Ông Hồ trong “Đèn Cù” là một nhà hoạt động với những tham
sân si đời thường, và cũng tội nghiệp khi bị Lê Duẩn lấn ép.
Nhưng Trần Đĩnh viết theo trí nhớ, theo những gì ông thấy,
ông nghe. Và khi ông viết (thập niên 1990s) lại chưa có Internet để tra cứu tài
liệu. Và cũng có thể nêu nghi vấn rằng ông nhớ không chính xác một số chi tiết.
Dù vậy, chúng ta không thể đòi như một tác phẩm nghiên cứu.
Đây là một hồi ký, một tự truyện và tận cùng là một tác phẩm văn học; “Đèn Cù”
đã ngay lập tức có một vị trí đôc đáo trong dòng văn học Việt Nam.
Trần Đĩnh đã cầm bút lên để viết như một chứng nhân của cách
mạng, viết như một nạn nhân của vụ án xét lại, viết như một nhà văn trôi nổi
với lịch sử dân tộc, và trong tận cùng là viết như một người con rất mực yêu
thương đất mẹ.
Sách đề giá 25 Mỹ Kim, xuất bản bởi Người Việt Books. Có thể
vào Amazon.com để mua.
Ngắn gọn, những ngươì quan tâm về lịch sử không thể không
đọc sách này.
Trong chương trình VHNT hôm nay
Mặc Lâm xin giới thiệu tác phẩm Đèn Cù của nhà văn nhà báo Trần Đĩnh.
Sách dày 600 trang sẽ được nhà xuất bản Ngưởi Việt phát hành vào hạ tuần
tháng 8 này.
Tác giả Đèn Cù là nhà báo kỳ cựu của tờ
Sự Thật từ những ngày đầu tiên khi báo này thành lập do Trường Chinh làm
Tổng biên tập. Ông sinh năm 1930 và tham gia Việt Minh vào năm 1946 tức
lúc mới 16 tuổi, Trần Đĩnh thuộc lớp đảng viên tiên phong gia nhập đảng
cộng sản Việt Nam từ năm 1948. Ông là người chấp bút tiểu sử của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, chấp bút những tự truyện của nhiều nhân vật như Phạm
Hùng, Lê Văn Lương, Bùi Lâm, Nguyễn Đức Thuận.
Những phân tích tinh tế
Do làm việc trong một cơ quan báo chí
cao nhất của Đảng ông có cơ hội gặp gỡ hầu hết các khuôn mặt của chế độ
từ Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, tới Lê Đức Thọ, Hoàng Tùng, Đỗ
Mười … và những quan hệ này đã giúp ông sớm nhận ra khuôn mặt thật phía
sau chiếc mặt nạ của các chóp bu cộng sản.
Sau khi vụ án “Xét lại chống đảng” diễn
ra ông cũng là một nạn nhân tuy mức độ lao tù nhẹ hơn người khác nhưng
đủ để ông thấy được sự đấu tranh gay gắt, sống còn giữa Mao Trạch Đông
và Liên Xô cùng với nghị quyết 9 ra đời dẫn dắt cả hệ thống Đảng Cộng
sản Việt Nam ngày càng rơi sâu vào vòng kềm tỏa của Trung Quốc.
Là người theo học tại Bắc Kinh 5 năm
trời, ông có những phân tích tinh tế trong “Đèn Cù” từ hành động tới
cách đối xử của Mao đối với Lê Duẩn, Võ Nguyễn Giáp hay ngay cả Hồ Chí
Minh trong những ngày chiến tranh chống Mỹ. Những ghi chép của ông tuy
không phải là những bí mật to lớn nhưng cũng giúp cho lịch sử cận đại
Việt Nam có cái nhìn chuẩn xác hơn về sự lệ thuộc của Việt Nam vào hai
đầu tàu Cộng sản thế giới là Liên Xô và Trung Quốc.
Cuộn dây thừng trong tay anh tuột ra văng trên mặt nước như một lằn roi sáng quắc. Và chỉ một dìm xuống rồi một nhồi thúc lên là anh lính liền mất tăm.
-Trích Đèn Cù
Những ghi chép ấy nằm trong một văn
phong tưởng chừng như hờ hững nhưng thật ra chất lửa tiềm ẩn từ trang
đầu tiên tới những dòng cuối cùng. Trần Đĩnh tỏ ra không dễ dãi như cách
kể chuyện của nhiều người, nhất là những người danh giá. Ông là nhà báo
có cách viết của một nhà văn đậm chất trữ tình qua nhịp đập của trái
tim thi sĩ.
Diễn tả sự việc cô đọng, nén thông tin
đến mức có thể, nhà báo Trần Đĩnh tỏ ra rành rẽ kỹ thuật thông tin của
thế kỷ 21 mặc dù ông là người đã cầm bút gần 70 năm từ ngày đầu tiên
trình diện báo Sự Thật.
Khi đọc những dòng văn sau đây khó ai có thể nghĩ rằng tác giả Đèn Cù là một nhà báo, ông viết:
“Cuộn dây thừng trong tay anh tuột ra
văng trên mặt nước như một lằn roi sáng quắc. Và chỉ một dìm xuống rồi
một nhồi thúc lên là anh lính liền mất tăm. Khi anh dội ngược trở lên
lần cuối, hai mắt anh mở đã dại đờ. Cái chết chớp nhoáng nhưng những
nghi thức đi kèm nó lại từ tốn rất mực. Cặp mắt dại kia như mơ màng khép
lại, tóc trên trán anh thong thả tách ra từng sợi lượn lờ rồi ngoan
ngoãn theo nước mơn trớn phân chia để lần lượt rẽ trái rẽ phải hai bên,
quá đều, quá phân miêng, khơi ra một đường ngôi quá thẳng, quá sạch, quá
trắng ở chính ngay giữa đỉnh đầu anh. Tôi khẽ nấc và cắn chặt môi. Tôi
thấy lại anh ba bốn tuổi đang ngửa mặt lên cho bàn tay mẹ định hình
đường ngôi đầu tiên trong đời để anh giữ lấy mãi, đường ngôi mà nay con
lũ trung thành đang tỉ mẩn xếp lại cho đúng nguyên mẫu ban đầu.”
Trong Đèn Cù không hiếm những câu văn
tinh tế như vậy do đó khi đọc nó người ta thấy cảm xúc thi ca được vuốt
ve và những hiện tượng chính trị thanh trừng, trù dập, bợm bãi với nhau
trở nên dễ chấp nhận hơn đối với người khó tính.
Nhân chứng lịch sử
Trần Đĩnh viết trước hết cho ông, sau đó
mới tới người đọc ông và cuối cùng là những thước phim tài liệu có khả
năng đứng vững như nhân chứng lịch sử, lịch sử của dối trá và che giấu
triệt để sự thật. Để che giấu nó, Đảng Cộng sản Việt Nam rập khuôn Liên
Xô và Trung Quốc, cơ quan báo chí quan trọng nhất phải có tên Sự Thật.
Hình chụp tại tòa soạn báo Sự Thật năm 1948, từ trái sang: Diên
Hồng, Nguyễn Địch Dũng, Kỳ Vân, Lê Quang Đạo, Trần Đĩnh, Trường Chinh,
Lê Xuân Kỳ, Thép Mới, Hồng Vũ. Hình do Tác giả cung cấp.
Xuyên suốt 600 trang của Đèn Cù là hai
mảng quan trọng diễn ra sau khi cộng sản cướp chính quyền. Lần thứ nhất
đấu tố địa chủ, cũng là dân chúng bị ép lên miễn cưỡng trở thành địa chủ
qua “Cải cách ruộng đất”. Lần thứ hai đấu tố, giam cầm những đảng viên
cộng sản có khuynh hướng thân Liên Xô và chống đối cuộc chiến tranh
tương tàn qua tên gọi “Vụ án xét lại chống đảng”.
Trần Đĩnh không vẽ ra toàn cảnh bức
tranh theo thứ tự thời gian sự kiện như thông thường. Ông kéo từng mảng
nhỏ mà ông chứng kiến, tham gia ra miêu tả lại với những chi tiết sâu
lắng dẫn dắt câu chuyện như mục tử nghêu ngao trên cánh đồng hoàng hôn
đầy ắp những nhân chứng lịch sử. Họ tuần tự kể lại hay qua Trần Đĩnh,
minh họa lại từng chi tiết với giọng văn tỉnh táo, trầm tư và rất thông
minh của một cây viết kinh nghiệm lão luyện về tự thuật.
Qua lời một người bạn thân theo chân Lê
Duẩn sang Trung Quốc xin Bắc Kinh giải tỏa số hỏa tiễn do Liên Xô viện
trợ bị Trung Quốc chặn lại vì muốn dằn mặt Việt Nam, Trần Đĩnh nhìn thấy
ở Lê Duẩn một sự ê chề, bị làm nhục vì dám sang Moskva trước khi tới
Bắc Kinh.
Chính ông, vào năm 1958 khi học tại
Trung Quốc đã chứng kiến tận mắt sự khinh bỉ của sinh viên Trung Quốc
đối với chế độ Việt Nam qua câu chuyện rất ngắn nhưng gói ghém rất nhiều
sự thật về tình đồng chí quốc tế vô sản, ông kể:
“Một hôm Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân đến
Bắc Kinh đại học nói chuyện với cả nghìn sinh viên. Bọn tôi nghe. Các
mẩu câu hỏi, thắc mắc của sinh viên tới tấp truyền tay nhau đưa lên trên
bàn Chu Ân Lai. Đến một mẩu, ông đọc to: Trung Quốc nghèo, dân Trung
Quốc đói, sao cứ phải giúp Việt Nam?
Tôi thật tình xấu hổ. Sinh viên Trung
Quốc đòi chấm dứt viện trợ cho Việt Nam trước đông đủ các nước, nhất là
trước sinh viên Hồi Giáo sáng sáng bốn năm giờ ra hành lang tụng kinh
dập đầu thình thình xuống đất không ai ngủ nổi. Mà sao Chu Ân Lai không
ỉm đi? Tôi hơi ức.
Chu Ân Lai giải đáp ngắn gọn, thẳng
thắn. Viện trợ cho Việt Nam là nghĩa vụ quốc tế nhưng có lợi cho Trung
Quốc: nên đẩy chiến tranh và đế quốc ra xa Trung Quốc hay để cho chúng
nó áp sát bên cạnh?”
Trần Đĩnh chứng kiến việc Mao Trạch Đông
giả vờ “Chỉnh đảng” để tiêu diệt thành phần chống đối với y. Báo chí
được lệnh kêu gọi phải đốt rụi những gì mà đảng sai lầm, phải “thiêu
cháy đảng” để đảng tái sinh… Thế là vô số người đứng lên làm theo sự kêu
gọi này mà có hay đâu đó là mồi nhử những người có tư tưởng đòi thay
đổi đảng. Mao Trạch Đông dưới mắt Trần Đĩnh là một gã đồ tể máu lạnh. Cử
chỉ nhỏ nhẹ, ăn nói từ tốn nhưng là để đối phương có thời gian bày tỏ
ngưỡng mộ hơn là bản chất của y, một gã cộng sản có dã tâm muốn thế giới
biến động để Trung Quốc đứng giữa hưởng lợi.
Hàng đầu từ trái qua: vợ Hà Xuân Trường, Lê Ðạt, Hồ Chí Minh, ngoài
cùng bên phải là Trường Chinh, hàng sau đứng đầu bên trái là Hà Xuân
Trường. Hình do tác giả cung cấp.
Đèn Cù, ngay cái tên của tác phẩm đã nói lên sự vắt kiệt tư duy của tác giả vào quyển sách này.
Khi nói đến Đèn Cù người ta nghĩ ngay
tới cái tên gốc của nó: Đèn kéo quân. Cái gốc đó phát xuất từ Tàu và
người Việt sau nhiều thế kỷ đã làm theo nó một cách tự nguyện. Đèn Cù
trở thành văn hóa Việt Nam, thay đổi chất liệu nhưng nội dung thì y như
nguyên bản.
Nếu nhìn trên mặt bằng văn hóa thì Đèn
Cù được diễn giải là hội nhập, là hòa tan và hàng chục khái niệm khác.
Tuy nhiên đối với Trần Đĩnh, Đèn Cù được khai mở trong một ý niệm khác:
Đảng Cộng sản Việt Nam theo đuôi nhau chạy vòng tròn dưới bầu khí bị đốt
lên bởi ánh nến ý thức hệ của đàn anh Trung Quốc. Họ như những con rối
không tự biết mình là rối. Không những thế họ muốn mọi người phải như
họ, tức là bịt tai, bịt mắt bịt cả tư duy để tin vào Trung Quốc một cách
mù quáng. Sự mù quáng vì ý thức hệ sai khiến ấy trở thành bi kịch cho
đất nước chỉ vì một nhóm nhỏ người lũng đoạn, thao túng mà phải chịu
cảnh nồi da xáo thịt trong nhiều chục năm trời.
Trần Đĩnh không chấp nhận bị sai khiến
và có chân trong cái đám đông tôn sùng Mao Trạch Đông của các lãnh đạo
Việt Nam. Ông tách ra đứng riêng chấp nhận tư thế của một người ngoại
cuộc, ngoại cuộc với sự tôn sùng lãnh tụ nhưng không ngoại cuộc với số
phận Việt Nam:
Sau năm năm du học tôi bắt đầu thấy đuợc một điều khôn lớn nhất: hãy cảnh giác với thần tượng và bỏ thần tượng! Do đó hãy tin trước hết ở lương tri, bản chất mình, gắng là chính mình, chớ nghe sai phái.
-Trần Đĩnh
“Sau năm năm du học tôi bắt đầu thấy
đuợc một điều khôn lớn nhất: hãy cảnh giác với thần tượng và bỏ thần
tượng! Do đó hãy tin trước hết ở lương tri, bản chất mình, gắng là chính
mình, chớ nghe sai phái. Do đó dám phê phán, dám lên tiếng và dám chịu
đựng… Cái đó nhờ phong trào phái hữu – mà tôi say sưa, sung suớng chứng
kiến – phủ nhận chủ nghĩa xã hội, độc quyền lãnh đạo, những mỹ tự có
tính bùa phép khiến một lớp người ít ỏi bỗng trở thành thần thánh.”
Những gì mà Trần Đĩnh tự nói với mình
nhiều chục năm về trước vẫn theo đuổi suốt cuộc đời ông. Xóa dấu vết
thần tượng Trung Quốc không quá khó đối với ông nhưng hai thần tượng
khác bao vây trí tuệ nhà báo Trần Đĩnh thật không dễ xóa chút nào.
Người thứ nhất là Hồ Chí Minh và người thứ hai là Trường Chinh.
Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh rơi xuống
trong lòng Trần Đĩnh vì tuy ông không ký vào nghị quyết 9 ủng hộ Trung
Quốc nhưng trong tư cách lãnh tụ ông đã bị phe Lê Duẩn khống chế để
không dám lên tiếng khiến Trần Đĩnh tỉnh ra trước sự thật này. Nghị
quyết 9 chỉ là giọt nước tràn ly khi trước đó qua Phạm Văn Khoa, một
người bạn của tác giả tháp tùng với Hồ Chủ tịch sang Trung Quốc về kể
lại nguyên văn rằng: “Ông Cụ sang kiểm thảo với Mao Trạch Đông, Lưu
Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai!”.
Trường Chinh cũng thế, tuy là bậc thầy
trong nghề báo đối với Trần Đĩnh nhưng tư cách tránh né vấn đề Cải cách
ruộng đất cũng như hành xử trong đời sống đã làm sự kính trọng của ông
dành cho Trường Chinh hoàn toàn phá sản.
Và rồi những diễn biến trong hậu trường
chính trị của Đảng Cộng sản Liên Xô và Trung Quốc đối với Việt Nam đã
gây đổ vỡ hoàn toàn trong con người nhà báo Trần Đĩnh. Ông phát hiện ra
rằng Mao Trạch Đông là người vận động Stalin thôi không có thái độ phủ
nhận đối với Hồ Chí Minh trong cái gọi là cộng sản quốc tế. Chính Stalin
đã phân công cho Trung Quốc “phụ trách” Việt Nam, mà trong ngôn ngữ
công sản “phụ trách” đồng nghĩa với chỉ đạo, định hướng, kể cả ra lệnh.
Tác giả Đèn Cù viết: “Hệ lụy đã nằm
lại sâu bền trong vô thức đảng viên cộng sản Việt Nam: vị trí đàn em,
bên dưới, yên phận biết ơn đã thành nền móng cho một tư thế ứng xử với
Trung Quốc. Xuân Trường cho biết Bác nhà mình chủ động khẳng định với
Bác Mao quan hệ môi răng giữa Việt Nam và Trung Quốc.”
Sự lệ thuộc vào Trung Quốc như một sợi
chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm Đèn Cù. Do chạy theo một cách vô thức như
những hình nhân mà nhiều đời Tổng bí thư sau Trường Chinh, Trung Quốc
vẫn chiếm một vị trí cao chất ngất trong quan hệ giữa hai đảng kể cả sau
cuộc chiến 1979 nhuốm đầy máu do Trung Quốc gây ra.
Do cùng thời với các danh tài như Nguyễn
Tư Nghiêm, Tô Hoài, Quang Dũng, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang, Xuân Diệu,
Phan Kế An, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đình Thi,
Nguyễn Huy Tưởng. Tế Hanh, Xuân Tửu, Đặng Thái Mai… Trần Đĩnh có cơ hội
nhìn thấy cách ứng xử của từng cá nhân trong mỗi con người của họ.
Chuyện sợ hãi của những người sống trong chế độ cộng sản đã trở thành
quen thuộc nhưng ám ảnh sau vụ Cải cách ruộng đất như Tô Hoài thì có lẽ
đã lên tới thể loại hài hước khó ngăn tiếng thở dài. Trần Đĩnh kể lại:
“Khoảng hai trăm tù binh phi công Mỹ
xếp hàng đầy hết lòng đường đi tới. Quần áo bà ba mầu xám khói nhạt. Tôi
giật mình: tất cả đoàn người bị trói kia sao quá giống hệt nhau? Ở
chiều cao, ở khổ người, ở dáng đi, ở nét mặt, ở tư thế và thần thái. Lầm
lũi ngửng đầu nhìn thẳng vào cái không gian bao quanh đằng đằng sát khí
và tiếng la ó. Thoáng rất nhanh tôi ngỡ xem một tập quần tượng đài di
động được một đạo diễn tài ba điều khiển. Nhà đạo diễn đó là ý thức về
giá trị tự thân. Và rất nhanh lại nghĩ ai đó đã dựng nên tập thể điêu
khắc này để đối lại tượng đài Nạn nhân các trại tập trung Quốc xã.
Dân hai bên đường hò hét, đánh đấm,
ném đá. Những cái đầu tù binh quay ngoắt tránh đá, tránh đấm rất nhanh.
Những con mắt không một lúc nào cầu van, nao núng…
Ba chúng tôi đứng lặng trên hè. Tương
quan sức mạnh quá chênh nhau tự nhiên làm se lòng. Đoàn tù binh đã đến
đoạn cuối, chợt Tô Hoài nhào xuống đường, nhảy vội lên đấm một cái trượt
vào mặt một người tù binh đi ở ngoài cùng.
Anh trở lại, tôi hỏi khẽ: – Đánh người ta làm gì?
Xung quanh căm thù như thế chả lẽ ba đứa mình đứng yên? – Tô Hoài che miệng tủm tỉm cười.”
Cái mỉm cười của Tô Hoài sau đó thể hiện lại một cách sắc sảo qua các cuộc đấu tố trong tiểu thuyết “Ba người khác”.
Đọc Đèn Cù cần một sự kiên nhẫn. Kiên
nhẫn như người nông phu cần mẫn nhặt từng hạt giống hư bỏ ra trước khi
gieo giống. Những “hạt giống” trong Đèn Cù cũng vậy, có thể làm người
đọc ngơ ngác vì nó tiết lộ những sự thật nao lòng, đến nỗi khó tin,
nhưng tiếc thay nó lại là sự thật.
Thất tình Hồ Chí Minh?
Mặc Lâm: Tiếp tục về tác phẩm
Đèn Cù xin nhà báo, nhà văn Trần Đĩnh vui lòng cho biết tại sao tới giờ
này ông mới quyết định ra mắt tác phẩm này? Động lực nào đã giúp ông
ngồi xuống tiếp tục viết những giòng cuối cùng của 600 trăm trang đầy ắp
tư liệu lịch sử như thế?
Trần Đĩnh: “Lê Đạt là người
khuyến khích, cổ động. Tôi đã định viết rồi và cũng đã viết rồi nhưng
tôi không cho Lê Đạt biết là tôi đã viết. Tôi nói là viết phải cô đơn vì
anh viết trong khi người ta mời anh cả ngày ra đồn, ra trạm thì anh
không làm được gì cả. Phải hết sức khiêm tốn chứ tôi nói anh đừng có
phổng mũi lên. Anh muốn đi đường xa thì phải chuẩn bị cho kỹ chứ đừng ầm
ĩ lên thì anh sẽ thiệt. Cứ lặng lẽ, lặng lẽ như thế này. Tôi viết từ
năm 1990 cho đến bây giờ, cứ lặng lẽ. Lê Đạt thấy tôi sống và viết như
thế và nói “mày không viết thì tao là người thất bại”, một cách để
khuyến khích nhau thôi.”
Nhà văn nhà báo Trần Đĩnh, ảnh chụp năm 1998. Hình do ông cung cấp.
Mặc Lâm: Trong Đèn Cù có đoạn
ông đã tỏ ra thất vọng và than rằng ông đã thất tình với Trường Chinh và
cả Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều gì đã làm ông tuyệt vọng về họ đến nỗi
phải dùng hai từ thất tình để mà miêu tả như vậy?
Trần Đĩnh: “Thứ nhất là ông
Trường Chinh ấy nói với tôi là ông ấy hoàn toàn tán thành vấn đề sống
hòa bình dân chủ. Ông ấy nói với tôi rằng đồng chí Khrouchev chủ trương
hòa bình thì làm sao mà chửi đồng chí ấy? Cho đến lúc ông ấy gọi tôi
viết hồi ký tôi biết là ông ấy nhắm tôi vì tôi với ông ấy nhiều cái hợp
nhau. Thứ nhất là ông ấy thích văn tôi. Thứ hai là ông biết lập trường
của tôi là giống ông ấy chứ không theo Lê Duẩn, cứng rắn theo Trung
Quốc.
Lúc bấy giờ Đảng Cộng sản Việt Nam đứng
trước hai ngả đường: theo Liên Xô hay theo Trung Quốc? Lúc đó Trung Quốc
kéo mạnh lắm, kéo người bên cạnh với sức quyết tâm rất mạnh. Hơn nữa là
ông Stalin nói là để Mao Trạch Đông phụ trách Việt Nam cho nên là đã có
đường mòn thế rồi. Anh nên nhớ Nghị quyết 9 cụ Hồ không bỏ phiếu. Không
bỏ phiếu tức là không tán thành, coi tư tưởng Mao Trạch Đông là tư
tưởng Lenin thời đại này. Ông Lê Duẩn cũng đã xác định trong quyển sách
coi tư tưởng Mao Trạch Đông là tư tưởng của Lenin trong thời đại cách
mạng này. Thế mà cụ Hồ không bỏ phiếu là không tán thành rồi.
Ông Trường Chinh thì tán thành và nói
rằng Trung Quốc đã đấm 9 cú đấm Thôi sơn, đánh tan chủ nghĩa Khrouchev.
Tôi thấy ông ấy đi ngược lại mình nên tôi có cảm giác là thất tình! Bây
giờ thì mình có tuổi nên cũng hiểu là con người ta cũng có lúc lắt léo
thế này thế nọ. Cuối cùng ông ấy mới kiến nghị nên mới có cái đổi mới
sau này đấy chứ. Đổi mới được một tí thì ông Lê Đức Thọ lại bắt ông ấy
phải về. Cụ Hồ cũng thế. Tôi thần thánh cụ Hồ vì tôi tôi nghĩ cụ sẽ nói
ra sự thật. Ai ngờ đâu cụ cũng im nốt. Té ra mình là thằng bướng bỉnh cứ
nói. Thất tình là như thế!”
Mặc Lâm: Sau khi Lê Duẩn bị
Trung Quốc làm cho ê mặt trong chuyến đi xin Bắc Kinh cho phép hỏa tiễn
viện trợ từ Nga được thông cảng sang Việt Nam, phải chăng Lê Duẩn rất
căm Bắc Kinh và tỏ thái độ chống Trung Quốc một cách mạnh mẽ sau này
thưa ông?
Tôi tin là nếu đảng có một tí khôn ngoan thì sẽ thấy cái nguy hiểm của mình. Cứ tiếp tục cái đà này thì không ai chịu nổi. Anh nói một đàng, anh làm một nẻo.
-Trần Đĩnh
Trần Đĩnh: “Ông ấy chưa chống
đâu, nhất định chưa chống đâu. Sau này khi Cách mạng Văn hóa thì ông ấy
mới giật mình. Ông bảo không cẩn thận thì lôi thôi nhưng ông ấy cũng
chưa chống. Sau này Trung Quốc lớn giọng quá ông ấy bắt đầu giật mình.
Anh nên nhớ lúc bấy giờ tôi có viết là Việt Nam như gót giày Achilles,
luôn luôn đứng dưới bóng đa bóng đề của Trung Quốc chứ không thể đứng
một mình được. Chúng ta cứ nói là chúng ta anh hùng nhưng chúng ta thua
thằng hèn là thế. Không thể đứng một mình được. Ngay đến bây giờ cần các
ông ấy đứng một mình tức là anh dám đi một mình hay không, nhưng lại
không dám nên vẫn nhìn ngó anh Trung Quốc. Cái bóng đó lớn đến nỗi chúng
ta không thể ra khỏi nó được.”
Mặc Lâm: Lãnh đạo Việt Nam hôm
nay có vẻ chưa rút ra được kinh nghiệm thân thiện với Trung Quốc cách
nào đi nữa thì vẫn bị họ khinh thường, dẫn dắt theo quyền lợi của họ.
Ông đã từng biết nhiều về việc Trung Quốc coi thường Võ Nguyên Giáp, Lê
Duẩn thậm chí với Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông lý giải thế nào về hiện
tượng lãnh đạo hôm nay?
Trần Đĩnh: “Lúc đầu cái chủ nghĩa
Cộng sản Quốc tế nó làm cho người ta đinh ninh rằng phải có phe và có
người đỡ lưng cho mình cho nên có gì thì cái xe vẫn phải chạy và có
người lái vẫn phải đi tiếp. Vì vậy khi Đặng Tiểu Bình lên ta bắt đầu hy
vọng. Đấy là những điều ảo tưởng hết. Đinh ninh rằng Việt Nam đã đứng
trên cái xe thì phải có đầu tàu, hoặc Liên Xô hoặc Trung Quốc rồi thì
chúng ta sẽ tiến lên. Trước mắt họ có làm xấu thì chắc họ sẽ phá ra
được, cũng như Đặng Tiểu Bình đánh Mao Trạch Đông để lên đấy. Tất cả đều
bị chủ nghĩa Quốc tế vô sản làm cho bị lóa đi. Cứ đinh ninh là như vậy
nên không thể đứng một mình được.
Quả thật Việt Nam có bao giờ đứng một
mình được đâu. Ngày xưa chưa có gì thì Đảng Cộng sản Pháp phụ trách. Tất
cả những ông lãnh đạo không biết tiếng Nga, tiếng Trung Quốc, chỉ biết
tiếng Pháp thôi. Nga giúp tiền cho mình thì lại qua Pháp. Sau này năm
1949 thì đi sang xin Trung Quốc. Mình không thể hiểu cái ràng buộc về ý
thức hệ nó kinh khủng lắm. Con người ta không dám vượt khỏi cái ranh
giới của ý thức hệ đã qui định được đâu. Anh phải có phe. Anh phải có
đầu tàu, đầu tàu cách mạng ấy, Liên Xô lãnh đạo anh không được vi phạm
không được phản bội. Anh nên nhớ ngày xưa trong đảng Cộng sản quốc tế,
chi bộ của quốc tế là chi bộ của Liên Xô. Anh mà phản bội chi bộ ấy thì
còn ra cái gì nữa, đúng không?
Cho nên cái tâm thức luôn luôn phục
tùng, luôn luôn sợ hãi kỷ luật ấy làm cho người ta bị tù túng ghê lắm.
Anh bị khống chế trước những quy luật tự anh đặt ra. Anh nên nhớ là bất
kỳ một ông lãnh tụ cộng sản nào cũng đều không được phép tự lập ra đảng.
Phải có Stalin bảo lập mới được lập. Anh mà tự lập anh chết ngay. Phải
có sự xem xét của Stalin để nghiên cứu xem tay này được hay không. Ghê
lắm. Đó là một uy lực kinh khủng.”
Mặc Lâm: Qua vụ án xét lại chống đảng, ông nhận xét thế nào về vai trò của hai ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ?
Trần Đĩnh: “Trước hết chính ông
Duẩn xác định tư tưởng Lenin vào thời đại này. Ông Duẩn rất tán thành
câu Mao Trạch Đông nói rằng “Thiên hạ đại loạn Trung Quốc được nhờ.” Có
nghĩa là bạn bè mà đánh khắp thế giới, đại loạn thì chính Trung Quốc mới
thoát được ra mà hưởng trong đại loạn ấy. Cái câu ấy đầy trong sách vở
của Trung Quốc. Ngày xưa tôi ở Trung Quốc tôi biết. Ông Duẩn rất tâm đắc
câu ấy. Bây giờ lái theo quĩ đạo ấy, chiến tranh các thứ… thì họ là
người tổ chức còn ông ấy cứ theo đúng đường lối ấy. Tổ chức như vậy thì
làm thế nào chống lại. Ông Thọ thì tính cách là người gian hùng làm dữ
dằn lên. Bố vợ tôi do chính ông ấy giết chứ chả thấy xét lại gì cả. Có
xét lại thì ông ấy cũng đã chết từ năm 46-47 rồi, Đảng viên đảng Cộng
sản Trung Quốc ông ấy thịt hết. Ông Lê Giản chống tổng giám đốc công an
xin khiếu nại mà không được.”
Anh hùng hay anh hèn?
Mặc Lâm: Trong gần cuối cuốn
sách có một đoạn rất buồn: Ông khóc vì dân ta hèn và vì nghĩ như thế
liên can tới cha mẹ nên ông bị mặc cảm là hỗn láo với tiền nhân, ông có
thể chia sẻ thêm về việc này?
Trần Đĩnh: “Tôi nói dân ta hèn là
vì như thế này: dân ta anh hùng nhưng sợ từ anh tổ trưởng sợ đi, sợ anh
công an, sợ các thứ. Tôi cũng cảm thấy chính mình cũng hèn. Mình sợ
nhiều thứ quá. Đấy là một tâm lý rất Việt. Bom đạn không sợ nhưng rất sợ
quyền lực. Chính điều đó đẻ ra việc chúng ta khó có dân chủ là vì dân
trí thấp. Chúng ta đinh ninh rằng chúng ta anh hùng trước mặt “kẻ thù”
nhưng đụng đến chính quyền, đến nhà nước là ta im re hết. Tôi gọi hèn là
vì vậy. Tại sao tôi khóc vì tôi cảm giác nhân dân như bố mẹ mình mà
mình nói xúc phạm như vậy là mình có lỗi với bố mẹ mình. Bây giờ dần
trưởng thành rồi mình cảm thấy không phải như vậy nữa.”
Mặc Lâm: Và nhìn lại hoàn cảnh sống hiện nay tại Việt Nam thì ông có cảm thấy sự hèn ấy có bớt đi phần nào hay không?
Trần Đĩnh: “Bây giờ bắt đầu khá
lên đấy. Dân mình bắt đầu khá lên là vì sự thật đã được cởi tất. Theo
tôi tất cả đều là sự thật hết. Người ta nhìn thấy ra sự thật, cái gì là
nguyên nhân. Trước đây người ta thấy nguyên nhân là đế quốc nhưng dần
dần thì không phải. Dần dần thì người ta thấy nguyên nhân chính là mất
dân chủ nhân dân không được coi trọng. Nhân dân chỉ có tiếng là gốc, là
chủ thôi chứ không hề có quyền lực gì hết. Người ta thấy ra sự thật
thôi. Người ta thấy đảng đã tước quyền của người ta. Trong quyển sách,
tôi có nói với anh cục trưởng cục A25 chuyên về an ninh văn hóa, tuyên
truyền là đảng có yếu kém về trí tuệ. Tôi nói với các anh ấy là đảng rất
yếu kém trí tuệ mà câu này không phải tôi sáng tạo ra mà chính đảng
nhận như vậy. Đảng duy ý chí mà chính vì anh kém trí tuệ nên anh duy ý
chí. Anh tưởng anh có thể cầm que diêm anh có thể đun nổi ly nước, đó là
anh duy ý chí hoặc là anh kém trí tuệ.
Đảng nhận, và tôi nói theo, đảng nhận
nhưng đảng không bao giờ làm, đấy là bi kịch lớn nhất của đảng. Đảng
nhận dân là gốc, là chủ nhưng không bao giờ coi dân là gốc, là chủ. Đảng
nói là nhìn thẳng vào sự thật và nói thẳng sự thật nhưng đảng không bao
giờ làm. Ai nói thẳng với đảng là bị đàn áp.
Tôi tin là nếu đảng có một tí khôn ngoan
thì sẽ thấy cái nguy hiểm của mình. Cứ tiếp tục cái đà này thì không ai
chịu nổi. Anh nói một đàng, anh làm một nẻo. Anh thử tưởng tượng một
show về thời của thế giới New York, Paris mà anh đưa ra người mẫu toàn
bằng tre bằng nứa thì ai người ta chịu được. Ở cuộc đời, anh phải luôn
luôn làm cho người ta tin. Tôi nghĩ đảng phải rút cái bài học này đấy.
Nói thẳng sự thật mà ai người ta nói ra thì đàn áp luôn rồi nói rằng mày
nói láo!”
Mặc Lâm: Xin cám ơn ông.
Chân dung của một tên bồi bút Trần An Lộc (Danlambao) - Mar 31, 2014 - Vụ án bà Nguyễn Thị Năm tức bà Cát Hanh Long là người đầu tiên bị xử bắn để phát động phong trào "cải cách ruộng đất" năm 1953 bởi đảng Cộng sản Việt Nam tại nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa lại đang như những giòng máu chảy dài trên báo mạng trong nước.
Người ta đã nghe nhiều về cái chết oan khiên, tức tưởi của
người phụ nữ vừa đáng thương vừa đáng kính này, nhưng nay đọc lại những chi
tiết được kể từ những người trong cuộc là con cháu của bà Cát Hanh Long, và
những quan chức tiếp cận với vụ án mới thấy hết cái xót xa, sự độc ác và tính
vô luân của vụ án và của những cá nhân đã trực tiếp chỉ đạo và gây ra vụ
án.
Để
tránh dài dòng, người viết xin quí độc giả đọc lại bài báo "Chuyện về người phụ nữ đầu tiên bị bắn oan trong Cải cách
ruộng đất" của tác giả Xuân Ba, đã đăng trên trang Blog Tễu
cùng tư liệu mang tên: "Thêm các tư liệu về việc vu oan bà Cát hanh Long Nguyễn Thị
Năm", trong đó đăng nguyên văn một bài báo (có bản chụp) với
lời mở đầu: "Dưới đây là một bài viết đăng trên báo Nhân Dân ngày 21
tháng 7 năm 1953 của tác giả C.B., mở màn cho chiến dịch cải cách ruộng đất.
Đối tượng mà bài báo “tấn công” là bà Cát-hanh-long Nguyễn Thị Năm, một người
có công với cách mạng."
Người
viết xin trích lại nguyên văn bài báo ký tên C.B. này như sau:
Địa
chủ ác ghê
Thánh
hiền dạy rằng: "Vi phú bất nhân". Ai cũng biết rằng địa chủ thì ác:
như bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khoá - thế thôi. Nào ngờ
có bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí dụ:
Mụ
địa chủ Cát-hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã:
-
Giết chết 14 nông dân.
-
Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân, nay còn tàn tật.
-
Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người - năm 1944, chúng đưa 37 gia đình về đồn
điền phá rừng khai ruộng cho chúng. Chúng bắt làm nhiều và cho ăn đói. Ít tháng
sau, vì cực khổ quá, 32 gia đình đã chết hết, không còn một người.
-
Chúng đã hãm chết hơn 30 nông dân - Năm 1945, chúng đưa 65 nông dân bị nạn đói
ở Thái Bình về làm đồn điền. Cũng vì chúng cho ăn đói bắt làm nhiều. Ít hôm
sau, hơn 30 người đã chết ở xóm Chùa Hang.
-
Năm 1944-45, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi. Chúng bắt các em ở dưới hầm,
cho ăn đói mặc rách, bắt làm quá sức lại đánh đập không ngớt. Chỉ mấy tháng, 15
em đã bỏ mạng.
Thế
là ba mẹ con địa chủ Cát-hanh-Long, đã trực tiếp, gián tiếp giết ngót 260 đồng
bào !
Còn
những cảnh chúng tra tấn nông dân thiếu tô thiếu nợ, thì tàn nhẫn không kém gì
thực dân Pháp. Thí dụ:
-
Trời rét, chúng bắt nông dân cởi trần, rồi dội nước lạnh vào người. Hoặc bắt
đội thùng nước lạnh có lỗ thủng, nước rỏ từng giọt vào đầu, vào vai, đau buốt
tận óc tận ruột.
-
Chúng trói chặt nông dân, treo lên xà nhà, kéo lên kéo xuống.
-
Chúng đóng gióng trâu vào mồm nông dân, làm cho gẫy răng hộc máu. Bơm nước vào
bụng, rồi giẫm lên bụng cho hộc nước ra.
-
Chúng đổ nước cà, nước mắm vào mũi nông dân, làm cho nôn sặc lên.
-
Chúng lấy nến đốt vào mình nông dân, làm cho cháy da bỏng thịt.
-
Đó là chưa kể tội phản cách mạng của chúng. Trước kia mẹ con chúng đã thông
đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ cán bộ. Sau Cách mạng tháng Tám, chúng đã thông
đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại kháng chiến.
Trong
cuộc phát động quần chúng, đồng bào địa phương đã đưa đủ chứng cớ rõ ràng ra tố
cáo. Mẹ con Cát-hanh-Long không thể chối cãi, đã thú nhận thật cả những tội ác
hại nước hại dân. Thật là:
Viết không hết tội, dù chẻ hết tre
rừng,
Rửa không sạch ác, dù tát cạn nước
bể!
(21-7-1953)
C.B.
Đọc
xong bài báo của tay C.B. này, quí bạn đọc thấy gì? Nghĩ gì?
Riêng
kẻ viết bài này thì thấy lạnh xương sống, rởn tóc gáy, sau đó thì phẫn nộ, và
rồi đau buồn và xấu hổ.
Thế
này mà là một bài báo ư? Mà lại là một bài báo đăng trên tờ báo chính thống của
đảng CSVN và của Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa!
Cố
gắng đọc lại và rồi thấy rằng đây là một bản cáo trạng, một bản cáo trạng không
bằng không chứng. Nói đúng hơn đây là một lô những điều vu khống, mạ lỵ, ngậm
máu phun người.
Mỗi
một chữ trong bản án rùng rợn này là một nhát mã tấu xả vào thân xác của một
phụ nữ bị trói tay trói chân và bị bịt miệng. Mỗi một hàng chữ là một kiểu giết
người man rợ mà không một người bình thường nào có thể nghĩ ra. Mỗi một đoạn
văn là một tấn tuồng vô luân mà chỉ những chuyên viên tra tấn và giết người
chuyên nghiệp mới có thể làm.
Nay
tất cả đổ lên đầu một phụ nữ là bà Cát hanh Long Nguyễn Thị Năm, một phụ nữ 47
tuổi đời, có 2 con là Trung Đoàn Trưởng QĐND, sư 308 Điện Biên và (trích): "Những
Võ Nguyên Giáp Trường Chinh, Lê Đức Thọ Hoàng Quốc Việt cùng nhiều yếu nhân của
Đáng của Mặt trận Việt Minh từng qua lại được chở che ở ngôi biệt thự bề thế ở
ven hồ Thiền Quang. Sau ngày toàn quốc kháng chiến, lại cũng những đáng bậc ấy
cùng nhiều yếu nhân của Đảng của Chính phủ cũng nhiều dịp tá túc qua lại sinh
hoạt ở khu đồn điền Đồng Bẩm vùng Thái Nguyên. Chủ những cơ ngơi những biệt thự
cùng khu đồn điền ở Đồng Bẩm ấy là bà Nguyễn Thị Năm thường gọi là Cát Hanh
Long, tên một hiệu buôn nổi tiếng ở Hà Thành, Hải Phòng". và "Khó kể
hết những đóng góp của nhà tư sản ấy cho cách mạng. Từng ủng hộ Việt Minh trước
CM tháng Tám 20.000 đồng bạc Đông Dương (tương đương bẩy trăm lạng vàng) rồi
sau này là thóc gạo, vải vóc, nhà cửa. Bà là một trong những người đóng góp
tiêu biểu nhất của “Tuần Lễ Vàng” ở Hải Phòng vơi hơn một trăm lạng vàng".
Và lời chứng của Võ Nguyên Giáp ngày 10/11/2001: "Bà Nguyễn Thị Năm tức
Cát Hanh Long là một địa chủ có tinh thần yêu nước, trong kháng chiến đã từng
giúp đỡ bộ đội. Bản thân tôi và Đại tướng Nguyễn Chí Thanh có lúc đã ở lại nhà bà.
Trong những buổi họp sửa sai, chính Bác Hồ, đồng chí Trường Chinh và đồng chí
Lê Văn Lương đều cho rằng xử trí bà Nguyễn Thị Năm là một sai lầm”.
Như
vậy rõ ràng bà Năm là một người yêu nước, một người đóng góp tích cực trong
công cuộc chống Pháp dành độc lập và là một ân nhân đối với các lãnh tụ đầu sỏ
của đảng CSVN. Vậy bà Năm có ân oán gì với tác giả C.B. mà C.B. phải vu khống
bà những tội ác khủng khiềp chỉ có trong các tiểu thuyết kinh dị hay trong óc
những tên đồ tể bệnh hoạn mất hết tính người, như vậy?
May
là chúng ta đã có câu trả lời (trích tại đây): "C.B.: là bút danh của ông
Hồ Chí Minh, dùng tại 147 tài liệu viết từ tháng 3 năm 1951 đến tháng 3
tháng 1957 (trên báo Nhân Dân)".
Vâng,
C.B. là bút danh của Hồ Chí Minh! Quả thật tôi không tin vào mắt mình! Quả thật
là một quả bom tấn!
Dù
không bao giờ tôi coi Hồ Chí Minh là một người yêu nước, dù với tôi Hồ Chí Minh
chỉ là một tên điệp viện cộng sản, là người có tội nhiều hơn là có công với tổ
quốc và dân tộc Việt Nam, tôi vẫn không bao giờ nghĩ Hồ Chí Minh lại vô luân
như thế, lại ác độc và hèn hạ như thế! Và tôi đã lầm: bởi vì C.B. tức Hồ Chí
Minh chính là một tay bồi bút mạt hạng. Hơn nữa là một thằng độc ác, hèn mạt và
vô luân.
Tại
sao vậy?
Bởi
vì thông thường một tên bồi bút cũng chỉ uốn cong ngòi bút của mình khi sinh
mạng hắn hay bà con thân nhân ruột thị hắn bị đe dọa, hoặc vì hắn ham tiền, ham
danh, ham gái, ham hưởng thụ và có thể vì bất tài, không đứng được trên đôi
chân của mình để phải làm một tên bồi bút bị mọi người khinh bỉ.
Nhưng
đây, xin quí bạn đọc nhớ cho - Hồ Chí Minh lúc ấy đang ở trên đỉnh quyền lực,
muốn hại ai thì hại, muốn giết ai thì giết, muốn gái có gái, muốn tiền có tiền,
thế thì cái gì đã khiến ông phải viết một bài báo vô luân như thế? Xin đừng đổ
lỗi cho quan thầy Trung quốc! Thử hỏi những Huỳnh Phú Sổ, Phạm Quỳnh, Khái
Hưng, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh, Trần Văn Thạc, Nguyễn Văn Vững
vân vân... bị giết, có cần phải có lệnh của TQ hay không? Như vậy nếu vì bất cứ
lý do gì (cứu cánh biện minh cho phượng tiện) muốn giết bà Năm thì cứ giết, như
đã giết các nhà yêu nước không cộng sản trên, cần gì phải viết một bài báo vu
khống, mạ lỵ, rồi kéo cả những người con bà Năm đã từng xả thân trên tuyến đầu
đánh Pháp vào mà hành hạ cho thân tàn ma dại một cách tán tận lương tâm đến như
vậy. Mà lại ký tên C.B. không dám đề tên Hồ Chí Minh cho bàn dân thiên hạ được
biết? Nó vô luân và hèn hạ chính là ở điểm này!
Tất
cả cái vô luân nằm trong cái tâm độc ác của con người bệnh hoạn này. Đã độc ác
lại hèn vì cam tâm đánh vào một người phụ nữ chân yếu tay mềm. Nó vô luân bởi
người phụ nữ này là ân nhân của hắn, của đồng chí và đồ đệ của hắn.
Nó
vô luân bởi người phụ nữ này là người yêu nước nhiệt tình, một người hoàn toàn
vô hại cho đảng cộng sản. Nó vô luân bởi mà là mẹ của 2 người con trai trong
quân đội ra tuyến đầu cứu nước. Người đã dâng gần hết tài sản cho đảng CSVN
được ngụy trang dưới danh hiệu cách mạng.
Thế
mà nó đã đối xử với bà còn thua loài thú đối với đồng loại, thì sao không thể
gọi là vô luân.
Viết
đến đây tôi cũng thêm một điểm để công luận và sử gia lưu ý: Đó là vai trò của
"Những Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Lê Đức Thọ Hoàng Quốc Việt cùng nhiều
yếu nhân của Đáng của Mặt trận Việt Minh từng qua lại được chở che".
Theo
bài báo dẫn thượng, thì mãi đến "mùa đông năm 1986 Lê Đức Thọ và Trường
Chinh mới ghé mắt đến con cháu vị ân nhân của mình. Còn Võ Nguyên Giáp thì sao?
Mãi đến ngày 10/11/2001 (5 năm sau Lê Đức Thọ lên tiếng) Giáp mới vớt đuôi một
câu: "Bà Nguyễn Thị Năm tức Cát Hanh Long là một địa chủ có tinh thần yêu
nước, trong kháng chiến đã từng giúp đỡ bộ đội. Bản thân tôi và Đại tướng Nguyễn
Chí Thanh có lúc đã ở lại nhà bà. Trong những buổi họp sửa sai, chính Bác Hồ,
đồng chí Trường Chinh và đồng chí Lê Văn Lương đều cho rằng xử trí bà Nguyễn
Thị Năm là một sai lầm”. Chỉ nói vớt đuôi vậy thôi chứ không hành động gì. Kể
cả trong lúc còn quyền hành nghiêng trời như nhân vật số hai sau Hồ Chí Minh,
Giáp cũng không thắp được một cây nhang cho vong hồn bà Năm để gọi là đền đáp
những gì bà đã cưu mang giúp đỡ chính bản thân hắn. Còn những tên như Hoàng
quốc Việt cùng nhiều yếu nhân... thì hoàn toàn vắng tiếng!
Với
những con người tán tận lương tâm như vậy mà tôn vinh là "cha già dân
tộc" là "nguyên khí quốc gia" thì đất nước này, dân tộc này
không cất đầu lên nổi là chuyện chẳng lạ chút nào.
Tôi
viết bài này như một nén nhang dâng lên oan hồn cụ bà Nguyễn Thị Năm và muôn
vàn nạn nhân khác đã bị cộng sản giết hại. Tôi cũng xin thân nhân của cụ Năm
cũng đừng xin xỏ chi cái đảng cộng sản vô luân này những cái giấy lộn và những
danh hiệu rỗng tuyếch cho tủi thêm vong linh người oan khuất.
.....
No comments:
Post a Comment