TT George W. Bush chào đón Lý Quang Diệu
tại tòa Bạch Ốc, 16 tháng 10, 2006
Lý
Quang Diệu viết về Hoa Kỳ
Biên
dịch: Nguyễn Việt Vân Anh
Hiệu
đính: Lê Hồng Hiệp
Chỉ
có kẻ ngu mới chống Hoa Kỳ
LQD
HOA
KỲ: Nhiều trở ngại nhưng vẫn giữ vị trí số 1
Cân bằng quyền lực đang chuyển đổi. Về
phía châu Á của Thái Bình Dương, theo thời gian Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều khó khăn
hơn trong việc gây ảnh hưởng. Mọi chuyện sẽ không còn như trước. Địa lý là điểm
mấu chốt trong trường hợp này. Trung Quốc có lợi thế hơn vì nằm trong khu vực
và có khả năng phô trương sức mạnh dễ dàng hơn ở châu Á. Đối với Hoa Kỳ, gây ảnh
hưởng từ cách xa 8.000 dặm là một điều hoàn toàn khác. Sự bất bình đẳng về ý
chí, hậu cần và chi phí là rất đáng kể. Chỉ riêng dân số của Trung Quốc, 1,3 tỉ
người, so với 314 triệu người Mỹ, cũng góp phần vào khó khăn của Hoa Kỳ. Nhưng
sự chuyển giao quyền lực sẽ không xảy ra một sớm một chiều do ưu thế vượt bậc của
Hoa Kỳ về công nghệ. Người Trung Quốc dù có thể chế tạo tàu sân bay nhưng vẫn
không thể đuổi kịp người Mỹ một cách nhanh chóng về công nghệ tàu sân bay với sức
chứa 5.000 quân và đầu máy hạt nhân. Nhưng cuối cùng, những bất lợi của Hoa Kỳ
do khoảng cách địa lý dần sẽ mang tính quyết định. Hoa Kỳ sẽ phải điều chỉnh thế
đứng của mình và chính sách của họ trong khu vực này.
Chính quyền Obama tuyên bố vào năm 2011
rằng Hoa Kỳ dự định tiếp cận khu vực châu Á-Thái Bình Dương với một trọng tâm mới.
Họ gọi đây là Sự Xoay Trục về Châu Á. Trên tờ Foreign Policy, ngoại trưởng
Hillary Clinton giải thích tư duy đằng sau chính sách mới này như sau: “Các thị
trường mở ở châu Á là những cơ hội chưa từng thấy đối với Hoa Kỳ về đầu tư,
thương mại và tiếp cận với các công nghệ tiên tiến… Về mặt chiến lược, việc gìn
giữ hoà bình và an ninh ở khắp khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ngày càng trở
nên thiết yếu đối với sự tiến bộ trên toàn cầu, dù là thông qua bảo vệ tự do
hàng hải trên Biển Đông, chống lại việc phổ biến vũ khí hạt nhân ở Bắc Triều
Tiên hay đảm bảo sự minh bạch trong các hoạt động quân sự của các nước lớn
trong khu vực.” Vào tháng 4 năm 2012, 200 lính thuỷ đánh bộ Mỹ đầu tiên đã được
triển khai tới Darwin, Úc trong một phần nỗ lực nhằm tăng cường hiện diện của
Hoa Kỳ trong khu vực.
Nhiều quốc gia Châu Á chào đón cam kết mới
này từ người Mỹ. Trong nhiều năm, sự hiện diện của Hoa Kỳ là một nhân tố quan
trọng giúp ổn định khu vực. Kéo dài sự hiện diện này sẽ giúp duy trì ổn định và
an ninh. Kích thước của Trung Quốc có nghĩa là cuối cùng chỉ có Hoa Kỳ – kết hợp
với Nhật Bản và Hàn Quốc, đồng thời hợp tác với các quốc gia ASEAN – mới có thể
đối trọng lại được nước này.
Tuy nhiên, chúng ta còn phải xem liệu
người Mỹ có thể biến ý định thành cam kết trong lâu dài được hay không. Ý định
là một mặt, tài trí và khả năng là một mặt khác. Hiện nay Hoa Kỳ có quân ở Úc,
Nhật Bản, Hàn Quốc và Guam. (Người Philippines đã không khôn ngoan khi mời người
Mỹ rời khỏi vịnh Subic vào năm 1992. Họ quên mất hậu quả về lâu dài của hành động
này và bây giờ họ bảo rằng “Hãy làm ơn quay lại.”) Người Mỹ tin rằng họ có sẵn
một dàn xếp quân sự trong khu vực cho phép họ cân bằng lại được với hải quân
Trung Quốc. Hơn nữa, vì các vùng nước trong khu vực tương đối nông, người Mỹ có
thể theo dõi hoạt động của các tàu thuyền Trung Quốc, kể cả tàu ngầm. Nhưng liệu
lợi thế này có thể kéo dài được bao lâu? Một trăm năm? Không thể nào. Năm mươi
năm? Không chắc. Hai mươi năm? Có thể. Rốt cuộc, cân bằng quyền lực có thể thực
hiện được hay không còn phải chờ vào nền kinh tế Hoa Kỳ trong một vài thập niên
tới. Cần có một nền kinh tế vững mạnh thì mới có thể phô trương quyền lực – đầu
tư xây dựng tàu chiến, tàu sân bay và các căn cứ quân sự.
Khi cuộc chiến tranh giành quyền bá chủ
trên Thái Bình Dương giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc diễn ra, những quốc gia nhỏ hơn ở
châu Á bắt buộc phải thích ứng với cục diện mới. Thucydides đã từng viết rằng
“kẻ mạnh làm những gì mà họ có thể và kẻ yếu phải chịu đựng những gì họ phải chịu
đựng”. Các quốc gia nhỏ hơn ở châu Á có thể không phải có một kết cục bi thảm
như thế, nhưng bất cứ góc nhìn hiện thực chủ nghĩa nào về sự suy giảm ảnh hưởng
của Hoa Kỳ tại Châu Á Thái Bình Dương đều sẽ khiến các quốc gia phải điều chỉnh
chiến lược đối ngoại của mình. Người ta sẽ phải quan tâm hơn đến những gì người
Trung Quốc thích hoặc không thích khi Trung Quốc ngày càng lớn mạnh về kinh tế
lẫn quân sự. Nhưng điều quan trọng không kém là không để cho Trung Quốc hoàn
toàn thống trị. Cuối cùng, tôi không cho rằng viễn cảnh người Trung Quốc hất cẳng
hoàn toàn người Mỹ ra khỏi Tây Thái Bình Dương có thể diễn ra.
Ví dụ như Việt Nam, là một trong những
quốc gia không an tâm nhất về sự bành trướng sức mạnh của Trung Quốc. Đặng Tiểu
Bình ra lệnh tấn công miền Bắc Việt Nam vào năm 1979 để trả đũa việc Việt Nam
can thiệp vào Campuchia. Đặng phá hủy một vài làng mạc và thị trấn rồi sau đó
rút lui, chỉ nhằm đưa ra một lời cảnh cáo với người Việt: “Tôi có thể tiến thẳng
vào và tiếp quản Hà Nội.” Đây không phải là bài học mà người Việt có thể quên
được. Một chiến lược có lẽ đã được chính phủ Việt Nam bàn đến là làm thế nào để
có thể bắt đầu thiết lập các mối quan hệ an ninh lâu dài với người Mỹ.
Tôi cũng cảm thấy rất tiếc rằng sự thay
đổi cân bằng quyền lực đang diễn ra vì tôi cho rằng Hoa Kỳ là một cường quốc
hoà bình. Họ chưa bao giờ tỏ ra hung hãn và họ không có ý đồ chiếm lãnh thổ mới.
Họ đưa quân đến Việt Nam không phải vì họ muốn chiếm Việt Nam. Họ đưa quân đến
bán đảo Triều Tiên không phải vì họ muốn chiếm bắc hay nam Triều Tiên. Mục tiêu
của các cuộc chiến tranh đó là chống lại chủ nghĩa cộng sản. Họ đã muốn ngăn chủ
nghĩa cộng sản lan tràn trên thế giới. Nếu như người Mỹ không can thiệp và tham
chiến ở Việt Nam lâu dài như họ đã làm, ý chí chống cộng ở các nước Đông Nam Á
khác chắc đã giảm sút, và Đông Nam Á có thể đã sụp đổ như một ván cờ domino dưới
làn sóng đỏ. Nixon đã giúp cho miền Nam Việt Nam có thời gian để xây dựng lực
lượng và tự chiến đấu. Nam Việt Nam đã không thành công, nhưng khoảng thời gian
gia tăng đó giúp Đông Nam Á phối hợp hành động với nhau và tạo dựng nền tảng
cho sự phát triển của ASEAN.
Singapore khá thoải mái với sự hiện diện
của người Mỹ. Chúng ta không biết Trung Quốc sẽ quyết đoán hay hung hăng như thế
nào. Vào năm 2009 khi tôi nói chúng ta phải cân bằng lực lượng với Trung Quốc,
họ dịch từ đó sang tiếng Trung thành “kìm hãm”. Điều này làm nổi lên một làn
sóng phẫn nộ trong cư dân mạng Trung Quốc. Họ cho rằng làm sao tôi lại dám nói
như thế trong khi tôi là người Hoa. Họ quá là nhạy cảm. Thậm chí sau khi tôi giải
thích rằng tôi không hề sử dụng từ “kìm hãm”, họ vẫn không hài lòng. Đấy là bề
mặt của một thứ quyền lực thô và còn non trẻ.
Trong cục diện đang thay đổi này, chiến
lược chung của Singapore là đảm bảo rằng mặc dù chúng ta lợi dụng bộ máy tăng
trưởng thần kì của Trung Quốc, chúng ta sẽ không cắt đứt với phần còn lại của
thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ. Singapore vẫn quan trọng với người Mỹ. Singapore
nằm ở vị trí chiến lược ở trung tâm của một khu vực quần đảo, nơi mà người Mỹ
không thể bỏ qua nếu muốn duy trì ảnh hưởng ở Châu Á – Thái Bình Dương. Và mặc
dù chúng ta xúc tiến các mối quan hệ với người Trung Quốc, họ cũng không thể cản
chúng ta có các mối quan hệ kinh tế, xã hội, văn hoá và an ninh bền chặt với
Hoa Kỳ. Người Trung Quốc biết rằng họ càng gây áp lực với các quốc gia Đông Nam
Á thì các quốc gia này càng thân Mỹ hơn. Nếu người Trung Quốc muốn đưa tàu chiến
đến viếng thăm cảng của Singapore khi có nhu cầu, như là người Mỹ đang làm,
chúng ta sẽ chào đón họ. Nhưng chúng ta sẽ không ngả về phía nào bằng cách chỉ
cho phép một bên và cấm đoán bên kia. Đây là một lập trường mà chúng ta có thể
tiếp tục duy trì trong một thời gian dài.
Chúng ta còn liên kết với phần còn lại của
thế giới thông qua ngôn ngữ. Chúng ta may mắn được người Anh cai trị và họ để lại
di sản là tiếng Anh. Nếu như chúng ta bị người Pháp cai trị, như người Việt,
chúng ta phải quên đi tiếng Pháp trước khi học tiếng Anh để kết nối với thế giới.
Đó chắc hẳn là một sự thay đổi đầy đau đớn và khó khăn. Khi Singapore giành được
độc lập vào năm 1965, một nhóm trong Phòng Thương Mại người Hoa gặp tôi để vận
động hành lang cho việc chọn tiếng Hoa làm quốc ngữ. Tôi nói với họ rằng: “Các
ông phải bước qua tôi trước đã.” Gần 5 thập niên đã trôi qua và lịch sử đã cho
thấy rằng khả năng nói tiếng Anh để giao tiếp với thế giới là một trong những yếu
tố quan trọng nhất trong câu chuyện tăng trưởng của Singapore. Tiếng Anh là
ngôn ngữ của cộng đồng quốc tế. Đế quốc Anh đã truyền bá thứ ngôn ngữ này ra khắp
thế giới, nên khi người Mỹ tiếp quản, đó là một sự chuyển đổi dễ dàng sang tiếng
Anh kiểu Mỹ. Đây cũng là một lợi thế rất lớn đối với người Mỹ khi trên toàn thế
giới đã có nhiều người nói và hiểu ngôn ngữ của họ.
Khi sự trỗi dậy của Trung Quốc tiếp diễn,
Singapore có thể nâng cao chuẩn mực tiếng Hoa trong nhà trường để cho học sinh
của chúng ta có một lợi thế, nếu họ chọn làm việc hoặc giao thương với Trung Quốc.
Nhưng tiếng Hoa vẫn sẽ là ngôn ngữ thứ hai, vì thậm chí nếu GDP của Trung Quốc
có vượt qua Hoa Kỳ, họ cũng không thể cho chúng ta được mức sống mà chúng ta
đang hưởng thụ ngày nay. Đóng góp của Trung Quốc vào GDP của chúng ta ít hơn
20%. Phần còn lại của thế giới sẽ giúp Singapore duy trì phát triển và đạt được
thịnh vượng – không chỉ là người Mỹ, mà còn là người Anh, người Đức, người
Pháp, người Hà Lan, người Úc, vv…. Các nước này giao dịch kinh doanh bằng tiếng
Anh, không phải tiếng Trung. Sẽ là rất ngu ngốc nếu chúng ta xem xét chọn tiếng
Trung làm ngôn ngữ làm việc tại bất kì thời điểm nào trong tương lai, khi mà
chính người Hoa cũng rất cố gắng học tiếng Anh từ khi mẫu giáo cho đến bậc đại
học.
Cuộc cạnh tranh cuối cùng
Hoa Kỳ không phải đang trên đà suy
thoái. Uy tín của Hoa Kỳ đã chịu nhiều tổn thất do việc đóng quân lâu dài và lộn
xộn tại Iraq và Afghanistan cũng như do cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng.
Nhưng những sử gia giỏi nhìn nhận sẽ chỉ ra rằng một Hoa Kỳ dường như yếu đi và
trì trệ đã từng phục hồi ra khỏi những tình huống còn tệ hại hơn. Đất nước Hoa
Kỳ đã đối mặt nhiều thử thách lớn trong những thời kỳ chưa xa: cuộc Đại Suy
thoái, chiến tranh Việt nam, thời kì trỗi dậy của các cường quốc công nghiệp hậu
chiến như Nhật Bản và Đức. Mỗi lần như vậy, Hoa Kỳ đã tìm thấy ý chí và sức mạnh
để phục hồi vị trí dẫn đầu cùa mình. Hoa Kỳ đã áp đảo. Nó sẽ thực hiện được điều
này một lần nữa.
Thành công của Hoa Kỳ nằm ở nền kinh tế
năng động, được duy trì không chỉ bằng khả năng đặc biệt sản xuất ra cùng một
thứ với chi phí ít hơn mà còn là liên tục đổi mới sáng tạo – tức là sáng chế ra
một mặt hàng hay dịch vụ hoàn toàn mới mà thế giới sớm cảm thấy hữu dụng và
đáng khát khao. Chiếc iPhone, iPad, Microsoft, Internet – tất cả đều được tạo
ra ở Hoa Kỳ chứ không phải nơi nào khác. Người Trung Quốc có thể có nhiều nhân
tài so với người Mỹ, nhưng sao họ không có những phát minh tương tự? Rõ ràng họ
thiếu một sự sáng tạo mà người Mỹ sở hữu. Và tia sáng đó cho thấy người Mỹ thỉnh
thoảng thể có sáng tạo đột phá thay đổi cục diện, điều cho họ vị trí dẫn đầu.
Thậm chí nếu những người theo thuyết suy
thoái đúng, và thật là Hoa Kỳ đang trên đà xuống dốc, ta phải nhớ rằng đây là một
nước lớn và cần có một thời gian dài thì mới suy thoái. Nếu Singapore là một nước
lớn, tôi sẽ chẳng lo lắng lắm nếu chúng ta chọn chính sách sai lầm, vì hậu quả
sẽ xuất hiện chậm. Nhưng chúng ta là một nước nhỏ và một quyết định sai lầm có
thể gây hậu quả kinh khủng trong một thời gian ngắn. Mặt khác, Hoa Kỳ như là một
con tàu chở dầu lớn. Họ sẽ không thể chuyển hướng nhanh như một chiếc thuyền.
Nhưng tôi tin rằng các cá nhân tin vào thuyết suy thoái đã sai lầm. Hoa Kỳ sẽ
không suy thoái. So sánh tương đối với Trung Quốc, Hoa Kỳ có thể ít uy lực hơn.
Có thể khả năng phô diễn sức mạnh ở Tây Thái Bình Dương của Hoa Kỳ bị ảnh hưởng
và có thể Hoa Kỳ không thể sánh với Trung Quốc về dân số và GDP, nhưng lợi thế
chính yếu của Hoa Kỳ – sự năng động của họ – sẽ không biến mất. Hoa Kỳ, nếu đem
ra so sánh đến giờ, là một xã hội sáng tạo hơn. Và khi mà trong lòng nội bộ nước
Mỹ đang có một cuộc tranh luận về việc liệu họ có đang xuống dốc hay không thì
đó là một dấu hiệu tốt. Điều đó có nghĩa rằng họ không ngủ quên trên đỉnh cao.
Tại sao tôi lại tin vào thành công về
dài hạn của Hoa Kỳ?
Đầu tiên, Hoa Kỳ là một xã hội thu hút đến
độ mà Trung Quốc khó lòng bì kịp. Mỗi năm, hàng nghìn người nhập cư đầy tham vọng
và có trình độ được cho phép vào Hoa Kỳ, định cư và trở nên thành công trong
nhiều lĩnh vực. Những người nhập cư này sáng tạo và thường mạo hiểm hơn, nếu
không thì họ đã chẳng rời khỏi quê hương của mình làm gì. Họ cung cấp một nguồn
ý tưởng dồi dào và tạo nên một chất men nào đó trong lòng xã hội Mỹ, một sức sống
mà ta không thể tìm thấy ở Trung Quốc. Hoa Kỳ sẽ không thành công được đến như
vậy nếu như không có người nhập cư. Trong hàng thế kỉ, Hoa Kỳ thu hút nhân tài
từ châu Âu. Ngày hôm nay, họ thu hút nhân tài từ châu Á – người Ấn, người Hoa,
người Hàn, người Nhật và thậm chí là người Đông Nam Á. Vì Hoa Kỳ có thể dung nạp
người nhập cư, giúp họ hoà nhập và cho họ một cơ hội công bằng để đạt được giấc
mơ Mỹ, luôn có một nguồn chảy tài năng hướng vào Hoa Kỳ và đổi lại Hoa Kỳ có được
công nghệ mới, sản phẩm mới và cách làm ăn mới.
Trung Quốc và những quốc gia khác rồi sẽ
phải tiếp thu vài phần của mô hình thu hút nhân tài của Hoa Kỳ phù hợp với hoàn
cảnh của mình. Họ phải đi tìm người tài để xây dựng các doanh nghiệp. Đây là cuộc
cạnh tranh tối hậu. Đây là thời đại mà chúng ta không còn có các cuộc đua quân
sự giữa các cường quốc vì họ biết rằng họ sẽ huỷ hoại nhau bằng cách ấy. Đây sẽ
là cuộc cạnh tranh về kinh tế và kĩ thuật và tài năng là nhân tố chính.
Hoa Kỳ là một xã hội thu hút và giữ chân
được nhân tài. Họ chiêu dụ được những tài năng bậc nhất từ Châu Á. Hãy nhìn vào
số lượng người Ấn trong các ngân hàng và trường đại học của họ — lấy ví dụ như
Vikram Pandit, cựu CEO của Citibank. Nhiều người Singapore chọn lựa ở lại Hoa Kỳ
sau khi du học. Đó là lí do mà tôi ủng hộ việc cho sinh viên học bổng đi du học
Anh, vì tôi chắc rằng họ sẽ trở về Singapore. Ở Anh, bạn không ở lại vì bạn
không được chào đón. Và vì nền kinh tế của Anh không năng động như Mỹ, ở đấy có
ít công ăn việc làm hơn.
Một lí do tại sao Trung Quốc sẽ luôn kém
hiệu quả hơn trong việc thu hút nhân tài chính là ngôn ngữ. Tiếng Hoa khó học
hơn tiếng Anh nhiều. Nói tiếng Hoa rất khó nếu như không học từ nhỏ. Đây là
ngôn ngữ đơn âm tiết và mỗi từ có tới 4 hay 5 thanh. Khi mà bạn không biết tiếng
thì bạn không thể giao tiếp. Đây là một rào cản rất lớn. Đây là kinh nghiệm bản
thân tôi. Tôi đã vật lộn trong suốt 50 năm và đến giờ mặc dù tôi có thể nói tiếng
Hoa và viết theo kiểu bính âm (pinyin), nhưng tôi vẫn không thể hiểu được tiếng
Hoa một cách thành thục như người bản ngữ. Đấy là tôi đã rất cố gắng. Trung Quốc
trở nên hùng cường vào tương lai không thay đổi sự thật cơ bản là tiếng Hoa là
một ngôn ngữ cực kì khó học. Có bao nhiêu người đến Trung Quốc, ở lại và làm việc
ngoại trừ những người Hoa, người Châu Âu và người Mỹ trở thành những chuyên gia
nghiên cứu Trung Quốc? Người Trung Quốc cố gắng truyền bá ngôn ngữ của mình ra
nước ngoài bằng việc xây dựng các Viện Khổng Tử trên toàn thế giới, nhưng kết
quả không được tốt lắm. Người ta vẫn đến Hội đồng Anh và những cơ sở của Hoa Kỳ.
Chính phủ Hoa Kỳ thậm chí không cần phải cố gắng. Một thời họ có Trung tâm Dịch
vụ Thông tin Hoa Kỳ, nhưng đã bị đóng cửa vì không cần thiết nữa. Đã có hàng loạt
ấn phẩm, chương trình truyền hình và phim ảnh làm công việc đó. Nên về quyền lực
mềm thì Trung Quốc không thể thắng.
Một nguồn lực khác mang lại sức cạnh
tranh cho Hoa Kỳ là nhiều trung tâm xuất sắc cạnh tranh lẫn nhau khắp cả nước. Ở
bờ Đông có Boston, New York, Washington, và ở bờ Tây có Berkeley, San
Francisco, và ở miền Trung nước Mỹ thì có Chicago và Texas. Bạn sẽ thấy sự đa dạng
và mỗi trung tâm lại cạnh tranh với nhau, không ai nhường ai. Khi người Texas
thấy rằng mình có nhiều dầu mỏ, James Baker – cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ và là người
Texas – đã cố gắng thành lập một trung tâm ở Houston để cạnh tranh với Boston
hoặc New York. Jon Huntsman, cựu đại sứ Hoa Kỳ ở Singapore và Trung Quốc và là
bạn của tôi, là một ví dụ khác. Gia đình ông có tiền sử bệnh ung thư tuyến tiền
liệt. Vì vậy khi ông thừa hưởng gia tài từ cha, ông mang những nhà khoa học giỏi
nhất trong lĩnh vực ung thư tuyến tiền liệt về quê nhà ông là bang Utah để
nghiên cứu vấn đề này.
Mỗi trung tâm tin rằng mình tốt như các
trung tâm còn lại, chỉ cần tiền và nhân tài, điều có thể kiếm được. Không ai cảm
thấy phải tuân theo Washington hay New York. Nếu bạn có tiền, bạn có thể xây dựng
một trung tâm mới. Bởi vì khía cạnh này, có sự đa dạng trong xã hội và một tinh
thần cạnh tranh cho phép sản sinh ra những ý tưởng và sản phẩm mới hữu ích dài
lâu. Trung Quốc thì lại chọn một cách tiếp cận khác. Người Trung Quốc tin rằng
khi trung ương mạnh thì Trung Quốc sẽ giàu mạnh. Đây là một thái độ cứng nhắc,
yêu cầu mọi người phải tuân theo một trung tâm duy nhất. Mọi người phải hành
quân theo cùng một điệu trống. Ngay cả Anh và Pháp đều không thể cạnh tranh với
Hoa Kỳ về mặt này. Ở Pháp ai là nhân tài cuối cùng đều vào các viện đại học
nghiên cứu lớn. Ở Anh thì đó là Oxbridge (Đại học Oxford và Đại học Cambridge).
Những quốc gia này tương đối nhỏ, gọn vì vậy cũng đồng bộ hơn.
Kể từ cuối thập niên 1970 cho đến thập
niên 1980, Hoa Kỳ mất vị trí dẫn đầu nền công nghiệp về tay những nền kinh tế mới
phục hồi như Nhật Bản và Đức. Họ bị vượt mặt về đồ điện tử, thép, hoá dầu và
ngành công nghiệp xe hơi. Đây là những ngành công nghiệp sản xuất quan trọng
huy động nhiều nhân công, kể cả những người lao động phổ thông được các công
đoàn bảo vệ. Ở một số nước châu Âu, các công đoàn chống đối các cải cách lao động
bằng việc đe dọa tiến hành các hành động công nghiệp có thể mang lại tổn thất
nghiêm trọng trong ngắn hạn. Nhưng ở Mỹ điều ngược lại đã xảy ra. Các tập đoàn
áp dụng những biện pháp thay đổi khó khăn nhưng cần thiết. Họ giảm qui mô, giảm
biên chế và cải tiến năng suất qua việc sử dụng công nghệ, trong đó có công nghệ
thông tin (IT). Nền kinh tế Hoa Kỳ trỗi dậy trở lại. Các doanh nghiệp mới được
mở ra để giúp các công ty tối ưu hoá hệ thống IT của mình, như là Microsoft,
Cisco và Oracle. Sau một khoảng thời gian điều chỉnh đầy đau đớn, các công ty
có thể tạo ra nhiều việc làm mới trả lương tốt hơn. Họ không thích thú với
nhưng công việc lỗi thời mà Trung Quốc, Ấn Độ hay Đông Âu có thể làm được. Họ
thấy được một tương lai mà của cải không phải được tạo ra bởi việc chế tạo đồ dùng
hay xe hơi, mà bằng sức mạnh trí óc, sức sáng tạo, tính nghệ thuật, kiến thức
và bản quyền trí tuệ. Hoa Kỳ đã trở lại cuộc chơi. Họ giành lại được vị trí là
nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong các nước đã phát triển. Tôi thật sự
khâm phục sự năng động và tin thần khởi nghiệp của người Mỹ.
Bạn tiếp tục chứng kiến điều đó ngay lúc
này đây. Người Mỹ vận hành một hệ thống gọn gàng hơn và có sức cạnh tranh hơn.
Họ có nhiều bằng sáng chế hơn. Họ luôn cố gắng tạo được thứ gì đó mới hoặc làm
điều gì đó tốt hơn. Tất nhiên, điều này cũng có một cái giá của nó. Chỉ số thất
nghiệp của Hoa Kỳ lên xuống như một cái yoyo. Ở thời kì suy thoái, chỉ số thất
nghiệp từ 8 đến 10 phần trăm là chuyện hiển nhiên. Kết quả là một tầng lớp dưới
hình thành. Giữa những xa hoa, lấp lánh, các cửa hàng đẹp đẽ ở New York, bạn
cũng có thể dễ dàng thấy người Mỹ vô gia cư nằm trên vệ đường. Họ không có gì
ngoài tấm áo khoác thân và miếng thùng carton để nằm ngủ. Một số người, kể cả
nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Paul Krugman, đã lên án khoảng cách giàu nghèo
ngày càng lớn ở xã hội Mỹ.
Điều này có chấp nhận được không? Tôi
không thể nói được. Có những tổ chức tôn giáo và từ thiện giúp đỡ. Một số thành
lập những quán ăn tình thương cho người thất nghiệp, vv…. Nhưng mà bạn không thể
vừa muốn có chiếc bánh trong tay, vừa muốn ăn nó. Nếu bạn muốn tạo nên sự cạnh
tranh mà Hoa Kỳ đang có, bạn không thể tránh được việc tạo nên khoảng cách đáng
kể giữa tầng đỉnh và tầng đáy, và không thể tránh khỏi việc tạo nên một tầng lớp
dưới. Nếu như bạn chọn một nhà nước phúc lợi, như châu Âu sau Chiến tranh thế
giới lần thứ hai, bạn tự nhiên sẽ không còn năng động.
Cuối cùng, Hoa Kỳ có một nền văn hoá tôn
vinh những người dám tự làm tự chịu. Khi họ thành công, họ được ngưỡng mộ như
là một nhà khởi nghiệp tài năng và có được sự công nhận và vị trí xã hội họ
đáng được hưởng. Khi họ thất bại thì điều này được coi là một giai đoạn tạm thời,
tự nhiên và cần thiết để rốt cuộc thành công. Vì vậy họ có thể đứng lên và bắt
đầu lại. Nền văn hoá này khác với Anh, một xã hội tĩnh hơn – nơi mà mọi người
biết vị trí phù hợp của mình. Nước Anh rất mang tính châu Âu về điểm này. Người
Anh từng có nhiều khám phá vĩ đại – máy hơi nước, máy kéo sợi và động cơ điện.
Họ cũng có nhiều giải Nobel khoa học. Nhưng rất ít khám phá trong số này của họ
trở nên thành công về mặt thương mại. Tại sao lại như thế? Những năm dài của 2
thế kỉ đế chế đã hình thành một xã hội nơi mà giới thượng lưu cũ và những quý tộc
có ruộng đất được kính trọng. Giới nhà giàu mới bị xem thường. Các sinh viên trẻ
ưu tú mơ ước trở thành luật sư, bác sĩ và trí thức – những người được ngưỡng mộ
vì trí tuệ và đầu óc của họ hơn là lao động cực nhọc hoặc lao động tay chân.
Hoa Kỳ thì lại khác, là một xã hội mới không có khoảng cách tầng lớp. Mọi người
đều ngưỡng mộ việc làm giàu – và muốn trở nên giàu có. Đây là một động lực rất
lớn để tạo nên các công ty mới và của cải. Thậm chí ở các công ty của Mỹ, người
trẻ có tiếng nói lớn hơn ở các cuộc họp, và sức trẻ của họ được định hướng để
giúp công ty trở nên sáng tạo hơn.
Thứ
Sáu, ngày 30 tháng 5 năm 2014
danquyenvn.blogspot
Nguồn: Lý quang Diệu (2013)
No comments:
Post a Comment