Thursday, October 18, 2012

(269) Thủ tướng và cái giá của sự 'ngạo mạn'

Tiểu sử của tên Việt gian Nguyễn Tấn Dũng

Theo tiểu sử chính thức của tên Việt gian này thì Việt gian Nguyễn Tấn Dũng bí danh Ba Dũng là con của tướng Nguyễn Tấn Minh nhưng cả nước biết tên Việt gian Ba Dũng này mồ côi cha rất sớm và trở thành con nuôi của Đại Tướng Lê Đức Anh. Việt gian Nguyễn Tấn Dũng sinh ngày 17/11/1949 tại thị xã Cà Mau và đúng ngày sinh nhật thứ 12, tức ngày 17/11/1961, gia nhập quân đội cộng sản, làm giao liên, cứu thương, y tá, rồi bộ binh và công an. Chi tiết này đáng chú ý: theo công pháp quốc tế việc tuyển dụng thiếu nhi vào quân đội là một tội ác, cuộc đời Nguyễn Tấn Dũng đã bắt đầu một cách bệnh hoạn, rất trái ngược với giáo dục mà một người lãnh đạo quốc gia hiện đại phải có.
Tiểu sử chính thức của tên Việt gian đã rất mơ hồ trong giai đoạn 1961–1981. Chỉ thấy nói tên Việt gian này được thăng lên cấp bậc thiếu tá bộ binh vào tháng 9/1981, lúc 32 tuổi. Không thấy nói vào ngày 30/4/1975 tên Việt gian này đang có cấp bậc nào và giữ chức vụ gì. Các nguồn tin đáng tin cậy cho biết lúc đó tên Việt gian này chỉ là một hạ sĩ quan công an. Sự nghiệp của tên Việt gian Nguyễn Tấn Dũng chỉ bắt đầu thăng tiến tốc hành khi cha nuôi của hắn, Lê Đức Anh, lọt mắt xanh của Lê Đức Thọ và được thăng chức vùn vụt từ đại tá năm 1974 lên đại tướng năm 1979.
Tiểu sử chính thức của Nguyễn Tấn Dũng càng mơ hồ, và phải nói thẳng là dối trá, trong giai đoạn 1981–1994. Chỉ thấy nói tên Việt gian này được đi học trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, nhưng lúc nào và trong bao lâu? Lại thấy ghi là tên Việt gian này đậu cử nhân luật, nhưng học ở đâu và bao giờ? Sự thực là Nguyễn Tấn Dũng chỉ được gửi đi học trường Đảng Nguyễn Ái Quốc cho có lệ, như một thủ tục bắt buộc của các cán bộ trẻ muốn được vào trung ương Đảng chứ Nguyễn Tấn Dũng chẳng học hành gì cả. Thực tế tên Việt gian Nguyễn Tấn Dũng là một mẫu người cán bộ không có học vấn như những lãnh tụ cộng sản trước. Về điểm này Nguyễn Tấn Dũng rất khác với Nguyễn Minh Triết, một người có học vấn thực sự.
Trong giai đoạn 1981–1993 tên Việt gian Nguyễn Tấn Dũng lên chức ào ạt nhờ Lê Đức Anh đã trở thành cánh tay mặt của Lê Đức Thọ, hắn lên tới cấp bậc trung tướng và trở thành thứ trưởng thứ nhất bộ công an. Điều dối trá của tiểu sử chính thức là nó đã mô tả Nguyễn Tấn Dũng như một cán bộ làm công tác Đảng và công tác hành chính. Thực sự thì trong giai đoạn 1981–1987 Nguyễn Tấn Dũng là trưởng công an huyện Hà Tiên và được giao một công tác cực kỳ quan trọng: làm kinh tài cho Đảng bằng cách tổ chức buôn lậu tại của biển Hà Tiên. Những ai từng ở Rạch Giá trong giai đoạn này đều đã thấy mỗi đêm cửa biển Hà Tiên rực sáng vì hàng ngàn thuyền buôn lậu Thái Lan đến đậu ngoài khơi với đủ thứ hàng chờ các thuyền con từ đất liền ra "ăn hàng". Trong thời gian này tên Việt gian Nguyễn Tấn Dũng cũng đã lập một thành tích lớn và được phong "anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân" nhờ gài bẫy bắt được Trần Văn Bá, cũng về cửa biển Hà Tiên buôn lậu lấy tài chính cho tổ chức kháng chiến Lê Quốc Túy.
Cần lưu ý là trước đó, trong các năm 1976–1977 Nguyễn Tấn Dũng, dưới lệnh của Võ Văn Kiệt và Võ Viết Thanh cùng đã tham gia vào một tội ác đẫm máu khác: thành lập tổ chức kháng chiến giả mang tên là "Đảng Việt Nam Phục Quốc" để gài bẫy bắt những thanh niên miền Nam chống chế độ cộng sản. Hàng ngàn thanh niên đã sa lưới, và dù họ chỉ là những thanh niên ngây thơ bị mắc lừa nhiều người đã bị xử bắn.
'Thách đấu' Thủ Tướng về điều hành kinh tế Vĩ mô  'Thách đấu' Thủ Tướng về Tái cấu trúc NH   'Hiệp sĩ' Tràn Hưng Quốc 'thách đấu' Thủ Tướng về các 'Quả đấm thép'    'Thách đấu' Thủ Tướng Những điều Đảng viên không được làm      'Thách đấu' Thủ Tướng trên võ đài   Thủ Tướng lại lãng phí của dân    Thủ Tướng bị 'Lừa'!   'Luật 7169' lê máy chém khắp Việt Nam   KH biến CTN thành 'Kẻ phản Quốc'        Ghê rợ sau VB 7169 của Thủ Tướng  Ngươi là ai mà chống Luật Biển?       Giải mã lá phiếu chống Luật Biển đông     Lộ mặt kẻ hán gián, bán nước   Không phải Quan điểm VP CTN   THủ Tướng YC xử lý Quan làm báo! 
Cũng cần lưu ý là tham nhũng đã lên rất cao trong giai đọan 2001–2006, nhiệm kỳ 9 của Ban Cháp hành trung ương ĐCSVN. Trong giai đoạn này tên Việt gian Nguyễn Tấn Dũng là ủy viên bộ chính trị và phó thủ tướng trực, quyền hành vượt hẳn tên Việt gian thủ tướng mờ nhạt Phan Văn Khải. Chính Nguyễn Tấn Dũng phải chịu trách nhiệm lớn nhất về quốc nạn tham nhũng, nhưng hiện nay tên Việt gian xảo quyệt này lại trâng tráo tự xưng là một người quyết tâm chống tham nhũng.
Tóm lại sự nghiệp của tên Việt gian Nguyễn Tấn Dũng là sự nghiệp của một con ông cháu cha trong Đảng, không trải qua gian nguy, không đạo đức và cũng chẳng có kiến thức và khả năng nào, nhưng đã được áp đặt vào địa vị lãnh đạo tối cao không khác gì một thái tử ngu xuẩn dưới các chế độ quân chủ. Sự nghiệp của tên Việt gian Nguyễn Tấn Dũng là một bất công lớn đối với chính các Đảng viên cộng sản khác, một chuỗi dài những gian dối và tội ác, và chính bàn tay tên Việt gian này cũng đẫm máu.
Trong kế hoạch chuẩn bị đưa tên Việt gian lên cầm quyền Đảng MA đã nhiều khi có những biện pháp thách đố như đưa tên Việt gian Nguyễn Tấn Dũng lên làm thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước dù tên Việt gian hoàn toàn không biết gì về kinh tế tài chính. Nguyễn Tấn Dũng còn tệ hơn nhiều so với Đỗ Mười và Lê Đức Anh vì ít ra những tên này còn có đảm lược, còn vào sinh ra tử. Những người có bản lãnh còn hy vọng có thể dám sửa sai khi nhận ra sự lầm lẫn: những sản phẩm của những đặc ân và gian trá như Nguyễn Tấn Dũng chỉ có thể cố thủ trong sự gian trá.
Trong hơn một năm qua Nguyễn Tấn Dũng đã làm gì? Ông chưa giải quyết được một hồ sơ tham nhũng lớn nào cả như tên Việt gian đã hứa lúc lên cầm quyền, trong vụ PMU 18 tên Việt gian này đã không giải quyết mà còn che đậy một cách trắng trợn.
Tên Việt gian Nguyễn Tấn Dũng đã phát động đợt đàn áp qui mô nhất từ nhiều năm nay và những phiên tòa dưới chính quyền của tên Việt gian đã phá mọi kỷ lục thô bạo. Bộ máy tuyên truyền của Đảng đánh bóng tên Việt gian này như một người dám nói, dám làm nhưng tên Việt gian đã dám làm gì? Việc dám làm nổi bật nhất gần đây của tên Việt gian Nguyễn Tấn Dũng là đưa lên chức chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao một trung tướng công an, tên Trương Hòa Bình. Nhân vật Trương Hòa Bình này không khác Nguyễn Tấn Dũng bao nhiêu: cách đây một năm mới chỉ là đại tá bị nhiều sĩ quan công an tố giác về cả khả năng lẫn đạo đức, nhưng vẫn được thăng chức vùn vụt, biết đâu chẳng sẽ là giải pháp của Đảng MA cho giai đoạn "hậu" Nguyễn Tấn Dũng?
Với thế lực hiện nay nếu muốn làm gì tên Việt gian này đã có thể làm rồi. Càng không nên chờ đợi ở Nguyễn Tấn Dũng những bước tiến đột phá trong chiều hướng dân chủ hóa hay thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc. Tên Việt gian Nguyễn Tấn Dũng dứt khoát không phải là người của những thay đổi này, trái lại là một trở ngại, và một trở ngại lớn. Người ta không thể hy vọng gì ở tên Việt gian này. Điều mà người ta có thể hy vọng là sau khi hai tên Việt gian Đỗ Mười và Lê Đức Anh không còn nữa, Nguyễn Tấn Dũng sẽ bị thay thế bởi một người có khả năng và sáng suốt hơn tên Việt gian này, điều này rất có thể xảy ra vì sự nghiệp của Nguyễn Tấn Dũng chỉ thuần túy do hai tên Việt gian này áp đặt. Đó sẽ là một may mắn thực sự cho đất nước.
Trở lại công việc trước mắt, có thể thấy là cộng đồng người Việt hải ngoại chúng ta nên và cần chuẩn bị để biểu lộ sự phẫn nộ phải có đối với một con người độc ác, với bàn tay đẫm máu, tác giả của những đàn áp thô bạo đối với anh em dân chủ trong nước.
Đỗ Minh Ngọc 
http://quanlambao.blogspot.se/2012/10/tieu-su-cua-ten-viet-gian-nguyen-tan.html
CHỊ RUỘT CỦA THỦ TƯỚNG NGUYỄN TẤN DŨNG “CHÊ” TIỀN BỒI THƯỜNG HƠN 10 TRIỆU ĐÔ LA khi bị thu hồi đất vườn cao su
Published on October 9, 2012  
Người dân huyện Văn Giang hiện nay đang chống cưỡng bức là bởi  vì  chính quyền  ép họ bán rẻ đất. Công ty của cô Nguyễn Thanh Phượng, con gái  của TT Ng Tấn Dũng, dựa hơi cha, cưỡng bức lấy đất đai của dân huyện Văn Giang  để làm Ecopark và  bồi thường cho dân với giá cực rẻ 133.333 đồng/ 1 mét vuông đất, trong khi thời giá trao tay mua đất dai  ở vùng này là 60 triêu đồng /1 mét vuông.
Hồi năm 2009, chính quyền bồi thường đất cho chị của thủ tướng với giá khủng  1 tỷ đồng/1 hecta ( 50000 đô la) đất rừng cao su ở Bình Dương, (cách Sài Gòn 30 km), mà chị Hai Tâm còn chê  ít. Và chồng chị đã “chống lại cưỡng bức” rồi “bị bắt”. Chị của TT Nguyễn Tấn Dũng nhà ở Kiên Giang, nhưng có tới 185 hecta đất rừng cao su ở Bình Dương!
Nay, Công ty của cô Nguyễn Thanh Phượng (kêu chị Hai Tâm là cô) chỉ bồi thường cho dân huyện Văn Giang 133.333 đồng/1 mét vuông, (huyện Văn Giang cách Hà Nội 20 km), 20 người dân bị công an đánh đập và bắt giữ.
Nhờ chuyện này mà Dân miền Bắc  hiểu rõ chuyên chính vô sản là gì. Nó có nghĩa là con cái và gia đình cán bộ đảng viên cao cấp của đảng CSVN mua đất đai của dân với giá cực rẻ, và sang tay cho các nhà đầu tư và hưởng lợi gấp 500-1000 lần giá mua. Nếu người dân không bán đất đai cho họ, thì công an và bộ đội sẽ đến cưỡng bức tịch thu đất. Ai chống lại, sẽ bị công an bắt và bỏ tù. Chuyên chính vô sản  là dùng súng ống dùi cui để  đánh đập và dùng công an để bắt bớ tù đày những ai không nghe theo lệnh của nhà nước, và của đảng.
Chúng ta thử đọc lại bài viết năm 2009 để so sánh nha

CHỊ RUỘT CỦA THỦ TƯỚNG NGUYỄN TẤN DŨNG “CHÊ” TIỀN BỒI THƯỜNG HƠN 10 TRIỆU ĐÔ LA KHI BỊ THU HỒI ĐẤT VƯỜN CAO SU 
Apr. 27th, 2009 at 7:40 AM



SÀI GÒN (NV) – Báo Sài Gòn Tiếp Thị, hôm Thứ Sáu, 24 Tháng Tư, ở mục “Góc Nhìn”, có bài bình luận của nhà báo Huy Đức về vụ chính quyền tỉnh huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương “cưỡng chế” thu hồi đất trồng cây cao su để làm khu công nghiệp An Tây, mà qua đó, người ta có thể thấy được một phần nào tài sản của bà Hai Tâm, người chị gái của đương kim Thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng.
Bài báo cho biết, vào sáng ngày 17 tháng Tư, chồng bà Hai Tâm (tức anh rể của Nguyễn Tấn Dũng) đã bị “áp giải ra khỏi hiện trường” khi chính quyền huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương tiến hành cưỡng chế thu hồi hơn 280 héc ta cao su còn lại ở xã An Tây để làm khu công nghiệp”.
Tác giả bài báo dẫn lời anh Huỳnh Ngọc Sang, người tự giới thiệu đang quản lý vườn cao su rộng 185 héc ta cho bà Hai Tâm, kể: “Lực lượng cưỡng chế với khoảng 150 người, đã “đưa đi” ít nhất 3 người trong đó có “ông Hai”, chồng bà Tâm.”
Việc “cưỡng chế” có cả công an (nhiều khi cả quân đội) tham gia, vốn là việc trong nhiều năm trở lại đây chính quyền địa phương hoặc trung ương tiến hành khi người dân bị thu hồi đất đai chống lại vì số tiền đền bù quá thấp (hoặc không thỏa đáng) so với giá trị thực của nó trên thị trường.
Nếu bỏ qua những chi tiết về vụ “cưỡng chế” mà tác giả Huy Đức cho rằng đó là sự “ngay thẳng trong thực thi công vụ của chính quyền huyện Bến Cát”, người ta nhận thấy, trong số 280 héc ta đất trồng cao su bị thu hồi thì bà Hai Tâm có đến 185 héc ta.
Vậy nguồn gốc 185 hec ta đất cao su này có từ đâu và trị giá của nó là bao nhiêu?
Huy Đức kể tiếp: “Vườn cao su kể trên thuộc 642 ha đất cao su vốn của công ty quốc doanh Sobexco. Trước đây, do làm ăn thua lỗ, Sobexco đã được tỉnh Bình Dương cho phép “bán vườn cây không gồm quyền sử dụng đất” để trả nợ, với giá bình quân 50 triệu/ha. Tiến trình mua bán kéo dài tới năm 2001, thì có những thay đổi, giấy tờ mua bán được ghi là “bên A (Sobexco) chuyển nhượng vườn cây cao su gắn liền với quyền sử dụng đất”. Hơn 40 người mua vườn cây cao su ở đây về sau được cấp sổ đỏ.
Tháng 6-2006, Thanh tra tỉnh Bình Dương cho rằng việc cấp “sổ đỏ” cho 40 hộ này là trái luật. Cuộc tranh cãi chưa ngã ngũ nhưng tỉnh vẫn cho phép công ty Xuất Nhập Khẩu Bình Dương thực hiện dự án xây dựng Khu công Nghiệp An Tây trên khu đất này. Số đất mà 6 năm trước đó tỉnh “bán” với giá 50 triệu đồng/ha, nay để làm Khu Công Nghiệp, XNK Bình Dương, một công ty quốc doanh, đền bù với giá 1tỷ/ha. Chỉ trong vòng từ tháng 7 đến tháng 10-2007, công ty XNK Bình Dương đã chi ra hơn 500 tỷ để đền bù cho chủ của những vườn cao su ấy.”
Tóm tắt những thông tin trên cho thấy, bà Hai Tâm cùng với 40 người khác, cách đây hơn 6 năm, đã “mua” mỗi héc ta đất với giá 50 triệu đồng Việt Nam (khoảng 4 ngàn đô la-theo thời giá lúc ấy), và nay mỗi hec ta đất này được “đền bù” 1 tỷ đồng Việt Nam (tức hơn 60,000 đô la). Bà Hai Tâm hiện có 185 héc ta do đó sẽ được bồi thường 185 tỷ đồng Việt Nam (tức hơn 10 triệu đô la), tuy nhiên gia đình bà vẵn chưa đồng ý nên bị “cưỡng chế”.
Lợi dụng chức quyền, hay thông đồng với chính quyền để mua đất đai của nông dân hoặc của nhà nước với giá rẻ mạt sau đó chờ “dự án” mở ra để được “đền bù” với giá gấp hàng chục lần là thủ đoạn làm giàu bất chính rất phổ biến ở Việt Nam, như tác giả Huy Đức cho biết:
“Trong số 40 người “dân” đứng tên trong các sổ đỏ ấy, có một số là người nhà của quan chức địa phương; và, tới cuối năm 2008, tuy không đứng tên quyền sử dụng đất ở An Tây, có người thân của Thủ tướng cũng lên gặp chính quyền địa phương khiếu nại.”
Theo Trần Hoàn

Xem tin nguồn: http://www.ttxva.org/chi-ruot-cua-thu-tuong-nguyen-tan-dung-che-tien-boi-thuong-hon-10-trieu-do-la-khi-bi-thu-hoi-dat-vuon-cao-su/#ixzz29h5Tpzex
Follow us: thongtanxavanganh on Facebook

Thủ tướng và cái giá của sự 'ngạo mạn'

Cập nhật: 14:48 GMT - thứ năm, 18 tháng 10, 2012
Việt Nam của năm 2012 là đất nước chìm trong khối nợ xấu khổng lồ, bắt nguồn từ hệ thống ngân hàng, khối quốc doanh yếu kém, những doanh nghiệp tư nhân thoi thóp vì thiếu vốn và sự thao túng nền kinh tế của các nhóm lợi ích.
Trong bối cảnh đó, những năm qua nhiều ý kiến chỉ trích đã hướng về phía thủ tướng đương nhiệm, ông Nguyễn Tấn Dũng vì quản lý lỏng lẻo và chủ nghĩa bè phái, với cao trào là Hội nghị Trung ương 6 vừa bế mạc ngày 15/10.
Bài viết nhìn lại về một vài dấu ấn của ông lên nền kinh tế Việt Nam từ lúc nhậm chức hồi năm 2006.
“Thủ tướng hiện đại”
Từ góc nhìn của giáo sư Carl Thayer, Học viện Quốc phòng Úc, ông Dũng là “Thủ tướng hiện đại đầu tiên của Việt Nam”.
Là người mà Thayer gọi là “kinh tế gia theo chủ nghĩa dân tộc” trong một cuộc phỏng vấn với BBC ngày 16/10, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã dẫn đầu trong việc giám sát tăng trưởng kinh tế Việt Nam kể từ năm 2006 và là người lãnh đạo cao cấp trong việc lèo lái và thỏa thuận với các chính khách và nhà đầu tư nước ngoài.
Ngay từ lúc nhậm chức, ưu tiên hàng đầu của ông là hỗ trợ xuất khẩu tài nguyên năng lượng, nông nghiệp, lâm nghiệp, các sản phẩm hải sản và may mặc; ngoài ra còn có phát triển những nguồn tài nguyên năng lượng đa dạng để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ví dụ như thủy năng và năng lượng hạt nhân.
Ngoài ra, việc đầu tư vào những công trình như nhà máy lọc dầu Dung Quất của chính phủ cho thấy xu hướng muốn tách dần ra khỏi việc xuất khẩu tài nguyên dạng thô bằng cách trang bị cho kinh tế nội địa khả năng chế biến trước khi xuất khẩu nhằm nâng cao vị trí của Việt Nam trên chuỗi giá trị toàn cầu.
Nhận xét về những thành tựu nổi bật trong nhiệm kỳ của thủ tướng, giáo sư Carl Thayer nói: "Khi Việt Nam phải gánh chịu khủng hoảng hồi năm 2008, thủ tướng đã đề xuất và thực hiện gói kích cầu để tạo một lá chắn khá tốt cho Việt Nam."
Một ý kiến khác từ chuyên gia Châu Á của hãng phân tích ONDD, ông Raphael Cecchi thì cho rằng "Nghị quyết số 11 của chính phủ vào năm ngoái đã giúp ổn định kinh tế vĩ mô đáng kể, kiềm chế thành công lạm phát".
'Ngạo mạn'

Hàng triệu người bị ảnh hưởng bởi lạm phát và kinh tế yếu kém trong vài năm qua.
Là "một thủ tướng nhiều quyền lực nhất trong lịch sử Việt Nam và là người theo đuổi chính sách tăng trưởng nóng", tuy nhiên, “điểm yếu lớn nhất của ông Dũng là sự ngạo mạn và thiếu khả năng lắng nghe những ý kiến quan trọng,” giáo sư Carl Thayer bình luận.
Để giúp tiến hành cải cách kinh tế, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã thành lập Tổ chuyên gia tư vấn về cải cách kinh tế và hành chính. Đến khi thủ tướng Phan Văn Khải kế nhiệm, ông đưa tổ chuyên gia này lên thành Ban nghiên cứu về kinh tế đối ngoại của Thủ tướng Chính phủ.
Thế nhưng ngay khi nhậm chức, ông Dũng đã giải thể ban nghiên cứu này qua Quyết định số 1008/QĐ-TTg (ban hành ngày 28/7/2006).
“Ông Dũng đã loại bỏ đội ngũ cố vấn của thế hệ đi trước và thay vào đó bằng một mạng lưới bè phái của riêng mình” – Giáo sư Carl Thayer nhận xét.
Sự ngạo mạn này còn được cho là thể hiện qua cách ông đề bạt nhân sự.
“Chỉ cần nhìn cách thủ tướng đề bạt người nhà và những người thân cận vào các vị trí quan trọng trong bộ máy Nhà nước và các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước cũng đủ thấy ông tự tin thế nào vào sức mạnh vây cánh của mình.” Một người có quan hệ cấp cao trong bộ máy Đảng Cộng sản nói với BBC.
“Thực ra ngay từ lúc đầu của Hội nghị Trung ương, những người trong cuộc đều biết rằng cả ông và những người thân tín của ông trong Đảng sẽ không mất chức. Tin đồn rằng thủ tướng bị cách chức chứng tỏ dư luận vẫn còn quá ngây thơ”, người muốn ẩn danh này nói thêm.
Thói quen bỏ ngoài tai những lời khuyên can đã trở thành một điều được nói đến thường xuyên của chính phủ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, trong đó có những lời khuyên can về sự bành trướng của mô hình Tập đoàn Nhà nước, những đầu tư công thiếu hiệu quả, làm thâm hụt vốn, ảnh hưởng môi trường cũng như sự bùng nổ của tăng trưởng tín dụng từ những kinh tế gia, nhà khoa học trong và ngoài nước cũng như các lãnh đạo và cựu lãnh đạo quốc gia mà tiêu biểu có tướng Võ Nguyên Giáp, cựu phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình.
Tín đồ của tăng trưởng nóng

Ông Dũng có tham vọng biến Vinashin thành tập đoàn mạnh cấp khu vực.
Sai lầm lớn nhất của Thủ tướng Dũng là đã theo đuổi tăng trưởng bằng mọi giá, lấy trọng tâm là khối quốc doanh trong lúc nền kinh tế đã chứng kiến tốc độ tăng trưởng tín dụng cao nhất khu vực trong suốt một thập niên qua.
Không ít các ý kiến cho rằng với tham vọng tăng trưởng thần kỳ, việc ông Dũng xây dựng các tập đoàn Nhà nước lấy ý tưởng từ Bấm mô hình Chaebol của Nam Hàn để trang bị cho nền kinh tế những 'cú đấm thép' là không có gì đáng ngạc nhiên.
Tương tự với Chaebol, các tập đoàn Nhà nước của thủ tướng được ưu đãi những khối tín dụng khổng lồ, được đảm bảo từ phía chính phủ. Nếu tăng trưởng tín dụng trong những năm 90 chỉ có 20% thì đến năm 2010, mức này lên đến 136%. Tín dụng chủ yếu được bơm vào các doanh nghiệp Nhà nước và các thế lực đầu cơ chứng khoán, bất động sản.
Tuy nhiên khác với Chaebol, các tập đoàn Nhà nước Việt Nam không được hình thành qua quá trình tích tụ vốn, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế và không những không thay thế được xuất khẩu mà còn đẩy cán cân thương mại sang nhập siêu khi nhập khẩu quá nhiều vật liệu.
Không những thế, quyết định cho phép các doanh nghiệp nhà nước đầu tư đa ngành trong phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2006 – 2010 kèm theo sự quản lý yếu kém của thủ tướng đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này lạm dụng nguồn cung cấp tín dụng dồi dào để phát triển đa ngành, lũng đoạn nền kinh tế nội địa với các công ty con làm ăn thua lỗ, khiến 70% nợ xấu trong tổng 200 nghìn tỷ nợ xấu tại các ngân hàng thuộc về khối quốc doanh.
Thu hút vốn đầu tư và vay vốn lãi suất thấp từ Trung Quốc để khắc phục thâm hụt mậu dịch là một phần khác trong chiến lược tăng trưởng của thủ tướng; tuy nhiên điều này không những gây phản ứng mạnh mẽ từ dư luận trong bối cảnh tranh chấp lãnh hải trên biển Đông giữa hai nước mà còn khiến Việt Nam ngày càng phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc.
Theo số liệu của Bộ Công thương thì trong 4 tháng đầu năm 2011, nhập siêu Việt Nam là gần 4,9 tỷ đôla, trong đó riêng nhập siêu từ Trung Quốc chiếm gần 4 tỷ đôla.
Điều đáng chú ý là nhập siêu với Trung Quốc dưới thời thủ tướng Dũng là ở mức 12,7 tỷ đôla, cao gấp 5 lần mức 2,67 tỷ đôla năm 2005 trong nhiệm kỳ của thủ tướng Phan Văn Khải.
Sự nhập siêu này được Trung tâm nghiên cứu kinh tế và Chính sách VEPR, đại học quốc gia Hà Nội lý giải là dưới thời thủ tướng Dũng, có đến 90% các dự án lớn, chủ yếu là công nghiệp thượng nguồn của các tập đoàn kinh tế Việt Nam trụ cột với giá trị trúng thầu từ hàng trăm triệu đến hàng tỷ đôla có nhà thầu là Trung Quốc.
Không những thế, các nhà thầu này thường chỉ sử dụng lao động và thiết bị đem từ Trung Quốc sang, dẫn đến việc Việt Nam không được hưởng chút lợi ích nào về lao động việc làm trong các thương vụ với Trung Quốc. Trong khi đó, đầu tư nước ngoài (FDI) từ Trung Quốc chỉ chiếm 1,5% tổng FDI của Việt Nam.
Để bù đắp cho sai lầm trong chính sách mậu dịch với Trung Quốc, chính phủ thủ tướng Dũng đã phải tìm kiếm những khoản FDI khác từ nước này để cân bằng cán cân thương mại, bất chấp những quan ngại về sự phá hoại môi trường và an ninh quốc phòng.
Tín dụng
Tăng trưởng tín dụng của Việt Nam so với khu vực qua các năm
Dự án Bauxite Tây Nguyên mà tác giả David Pilling trong bài viết đăng ngày 6/5/2009 trên Financial Times gọi là sự 'triều cống' của Việt Nam để đổi lại khoản đầu tư 15 tỷ đôla nhằm giải quyết 11 tỷ đôla nhập siêu năm đó là một trong những dự án như vậy.
Để đảm bảo tăng trưởng, chính phủ Nguyễn Tấn Dũng còn phải chỉ đạo thu hồi đất nông nghiệp cho các dự án biệt thự, sân golf, công nghiệp.
Nhiều vụ trong số này đã trở thành cưỡng chế bạo lực, dẫn đến những vụ như Văn Giang hồi tháng Tư năm nay. Điều này khá giống với tình hình tại Trung Quốc trong bản báo cáo mới nhất của Ân xá Quốc tế.
Chỉ tính trong 5 năm từ 2006-2010, cả Việt Nam đã mất khoảng 200 nghìn ha đất cho các dự án công nghiệp, sân golf, biệt thự, dẫn đến gần 2,5 triệu lao động mất việc và người nông dân có 3-4 tháng nông nhàn mỗi năm, theo số liệu của Bộ Lao động Thương binh Xã hội.
Lạm phát "quán quân" khu vực
Bất ổn vĩ mô đã kéo theo biến động trong khu vực ngân hàng Việt Nam
Không có nước nào trong khu vực hoặc thậm chí có điều kiện tương tự mà lạm phát liên tục cao hơn tăng trưởng như Việt Nam những năm qua
Hồi tháng 10/2007, trả lời báo chí trong nước, ông Nguyễn Sinh Hùng (lúc đó là phó thủ tướng) tự tin khẳng định “chỉ tiêu tăng trưởng 9% trong năm 2008 là khiêm tốn”. Thậm chí ông cho rằng trong điều kiện thuận lợi, khả năng tăng trưởng lên đến hai con số là hoàn toàn có thể.
Có lẽ lúc đó ông Hùng đã không lường trước rằng, thứ duy nhất tăng lên hai con số năm 2008 là ... lạm phát.
Lạm phát năm 2007-2008 bùng nổ vì nhiều lý do, trong đó có sự tăng mạnh của mức lương tối thiểu, gia tăng giá cả của hàng hóa quốc tế và việc luồng đầu tư nước ngoài đổ vào ồ ạt sau khi Việt Nam gia nhập WTO cuối năm 2006 mà không có chính sách kiểm soát; kèm theo chính sách tiền tệ lỏng lẻo, thiếu linh hoạt cũng như tỷ giá cứng nhắc.
Ngân hàng Nhà nước lúc đó phải bơm tiền đồng vào nền kinh tế để giảm nhẹ áp lực tăng tỷ giá, làm trầm trọng hơn tình trạng lạm phát, đưa lạm phát tháng Tám năm 2008 lên mức 28,2%, cao nhất kể từ năm 1993, theo số liệu từ Tổng cục thống kê.
Không những thế, những chi tiêu công quá mức (chiếm khoảng 20% GDP, theo báo cáo của Viện Nghiên cứu Kinh tế Trung ương) thiếu hiệu quả, không tạo ra sản phẩm tương ứng, không tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho nền kinh tế cũng như các khoản vay theo quan hệ và sự độc quyền giá xăng, điện khiến lạm phát như quả bom chỉ chực bùng nổ và thực tế đã tiếp tục leo lên 23,2%, mức cao nhất Châu Á trong tháng Tám năm 2011.
Cũng kể từ năm 2008, mặc dù triển vọng tăng trưởng vẫn bị hạ thường xuyên nhưng tăng trưởng kinh tế Việt Nam vẫn liên tục trượt mốc chỉ tiêu, với tăng trưởng trượt dốc từ mức 8,2% năm 2006 xuống còn 5,2% trong năm 2012 theo báo cáo tháng Mười của Ngân hàng Thế giới.
Đầu tư để kiếm lỗ?
Nguyễn tấn dũng
Thủ tướng Dũng trong những phút cuối diễn văn bế mạc Hội nghị Trung ương 6 của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng

Một trong những dấu ấn của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lên kinh tế Việt Nam là việc hướng đầu tư công vào những dự án hoặc có rất ít, hoặc không có chút giá trị kinh tế nào trong khi cả người dân lẫn doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đều than vãn về hạn chế cơ sở hạ tầng của Việt Nam.
Chỉ số được sử dụng rộng rãi trong việc đo đạt hiểu quả đầu tư là Hệ số sử dụng vốn đầu tư (ICOR). Mục đích của hệ số này là tính ra phải mất bao nhiêu đồng vốn đầu tư mới tạo ra một đồng tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Chỉ số ICOR càng cao đồng nghĩa với vốn đầu tư được sử dụng kém hiệu quả.
Nếu báo cáo của Tổng cục Thống kê cho thấy ICOR dưới thời cố thủ tướng Võ Văn Kiệt giai đoạn 1991-1995 chỉ là 3,5 và tăng lên 3,9 trong nhiệm kỳ của thủ tướng Phan Văn Khải thì dưới thời thủ tướng Dũng, hệ số ICOR tăng vọt lên 6,15 trong giai đoạn 2007-2008 và đến năm 2009 thì lên đến 8.
Dù con số này đến năm 2010 đã giảm xuống mức 6,9 nhưng vẫn cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực.
Đáng chú ý hơn, ICOR của khu vực Nhà nước năm 2010 là 10,2 lần, cao gấp rưỡi hệ số chung trong khi đó, ICOR của khu vực ngoài Nhà nước năm 2010 là 3,9 lần, thấp hơn hệ số 4,9 lần của năm 2006, chứng tỏ sự vượt trội trong hiệu quả đầu tư.
Ngoài ra báo cáo của sứ quán Anh hồi tháng Sáu cũng chỉ ra khoảng cách năng suất lao động của các doanh nghiệp Nhà nước so với cả khu vực doanh nghiệp nói chung tăng ngày càng lớn qua thời gian, từ 1:4 năm 2000 đến 1:8 năm 2008.
Chỉ cần lấy ví dụ những công trình mà thủ tướng đích tay ký như cảng Vân Phong, với tổng mức đầu tư 3,6 tỷ đôla và lễ khởi công hoành tráng tốn kém hơn 4,144 nghìn tỷ đồng giờ chỉ còn lại "114 cọc thép và một xà lan toàn những máy móc rỉ" (theo AP); những câu chuyện như sự tiêu phí 4 tỷ đôla của Vinashin hay các dự án bỏ hoang của Vinaconex thì cũng dễ hiểu tại sao cây bút Geoffrey Cain lại phải thốt lên "Việt Nam của năm 2012 là nơi của một chính phủ đưa ra quyết định xây dựng những công trình ở những vị trí kỳ cục" trong bài viết trên trang Foreign Policy hồi tháng Bảy.
Sau những thành tựu
 
Trong những năm gần đây, Việt Nam liên tục được “phong tặng” các danh hiệu nhất nhì bởi các tổ chức quốc tế.
Về kinh tế, Việt Nam là nước thứ nhì ASEAN từ dưới đếm lên trong năng lực cạnh tranh toàn cầu, theo báo cáo tháng Chín của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF); tụt tổng cộng 16 bậc trong hai lần xếp hạng gần nhất của tổ chức này.
Nỗ lực làm trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nướccủa ông Nguyễn Phú Trọng được một số người đánh giá cao.
Báo cáo hồi tháng Sáu năm nay của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cũng chỉ ra rõ những cái 'nhất' khác của kinh tế Việt Nam như lạm phát, tăng trưởng tín dụng, lãi suất và tỷ lệ nợ xấu cao nhất Châu Á những năm qua.
Đó là chưa kể đến những danh hiệu phi kinh tế khác như "nước bảo vệ động vật hoang dã tồi nhất" của Quỹ bảo vệ thiên nhiên thế giới (WFF) hay vị trí 172/179 trong xếp hạng những nước thù địch tự do Internet của Tổ chứng phóng viên không biên giới (RSF).
Những sai phạm nghiêm trọng trong điều hành của ông Dũng được cho là lý do khiến Trung ương Đảng phải họp kín sớm hơn dự đoán hồi đầu tháng Mười.
Trả lời về kết quả Hội nghị Trung ương Sáu sau buổi bế mạc ngày 15/10, giáo sư Carl Thayer nói:
"Trên thực tế, Thủ tướng Dũng đã được Trung ương trao cho một nghị trình để thực hiện. Và hội nghị trung ương lần tiếp theo, rất có thể sẽ mở ra vào tháng 12 hoặc đầu năm tới.
Và từ nay tới đó, Thủ tướng Dũng phải làm tốt, căn cứ vào những gì ông ta đã hứa khi tự phê. Sẽ có nỗ lực phối hợp để xác định rõ và xử những ai bị cho là chịu trách nhiệm về Vinashin và Vinalines. Ban Kinh tế Trung ương sẽ họp để tư vấn cho Đảng qua các phân tích nhằm buộc ông Dũng phải có trách nhiệm về hành vi của mình.
Bộ Chính trị cũng sẽ phải ra được một kế hoạch hành động mang tính phối hợp nhằm giải quyết các điều yếu kém đã nêu ra ở hội nghị trung ương lần này."
Nhận định về người có khả năng kế nhiệm Thủ tướng Dũng, ông Thayer cho rằng phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc là ứng cử viên khá sáng giá, vì không những là người được ông Dũng chọn đầu tiên mà còn là phó thủ tướng duy nhất nằm trong Bộ chính trị.
“Nhiều người cho rằng phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc là người khá trung lập trong quan hệ trong Đảng cộng sản. Tuy nhiên thực tế là ông Phúc là người rất thân tín của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng,” nguồn tin giấu tên có quan hệ cấp cao trong Đảng nói với BBC.
“Trong mắt ông Dũng, ông Phúc là người 'dễ bảo' và có đường lối ôn hòa.”

Bảo vệ chủ quyền là vấn đề thiêng liêng của dân tộc (sic!)
02:20:00 22/10/2012
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh nội dung này tại buổi tiếp xúc theo chuyên đề, lĩnh vực với cử tri Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, sáng 21/10.
Trao đổi với cử tri về tình hình kinh tế - xã hội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: Trong điều kiện phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, công tác lãnh đạo điều hành thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 đã bám sát mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong các nghị quyết của Đảng và Quốc hội, đạt và vượt 10/15 chỉ tiêu kế hoạch.
Đối với công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, Thủ tướng nhấn mạnh đây là vấn đề toàn Đảng, toàn dân hết sức quan tâm, trăn trở; quyết tâm của Đảng, Nhà nước là ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tội phạm này. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: “Phòng chống tham nhũng phải xử lý nghiêm theo pháp luật. Cùng với pháp luật còn các giải pháp khác, kể cả về giáo dục đạo đức, giáo dục lối sống, lẽ sống để làm sao mỗi cán bộ công chức đều có lòng tự trọng, có trách nhiệm cao với đất nước”.
Liên quan đến vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ mà cử tri quan tâm, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định, Đảng và Nhà nước ta có thái độ rất rõ ràng và rất kiên định, đây là vấn đề thiêng liêng của đất nước và dân tộc. (Nói một đằng, làm một nẻo) Riêng về vấn đề Biển Đông, chúng ta kiên trì, nhất quán thực hiện chủ trương giải quyết các vấn đề trên biển bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982; tôn trọng và thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và hướng tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC); bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền và lợi ích trên biển của Việt Nam; đóng góp tích cực vào hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông.
Cũng tại buổi tiếp xúc cử tri, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chia sẻ và phân tích lộ trình cải cách tiền lương và khẳng định Chính phủ đang tính toán một cách cân đối và kỹ lưỡng để thực hiện lộ trình này


No comments: